Bút ký: Định Mệnh 2
Trở Về Lối Cũ
Tác giả: Thanh Hiền- Dị Nhơn
Bell thành phố sương mù- 2015
Xuất bản năm 2004
Trở về lối cũ
Chiều đi sóng dậy bạc lòng
Đưa tay gạt lệ theo chồng về xa
Cầm bằng tình chết hôm qua
Ru đời vỡ vụn ru ta ngậm ngùi...

Không nhiều thì ít có dòng máu dê
Xứ này chấp nhận đa thê
Mấy ông vốn thích đam mê "ăn chè"
Chiều đi sóng dậy bạc lòng
Đưa tay gạt lệ theo chồng về xa
Cầm bằng tình chết hôm qua
Ru đời vỡ vụn ru ta ngậm ngùi...
Chỉ trong một tháng bao nhiêu chuyện tang thương vây kín lấy tôi. Anh Tám Búp qua đời, cái gai cuối cùng hắn nhổ qua dễ dàng nên mặc tình hắn thao túng, còn má như một tín đồ mê tín, bảo hắn mang tôi về Sàigòn để kềm chế:
-Tao nói trước vợ đâu chồng đó! Bỏ nó miết ở đây! Nó trốn nữa thì bây ráng chịu!
Hắn thừa biết rằng dù tôi ở nơi đâu, tôi cũng tìm cách thoát ly, giữ tôi được lúc nào thì hay lúc đó. Biết má vừa lãnh tiền tử của anh Tám, chộp được cơ hội đó hắn làm màu than thở:
-Con cũng muốn đem vợ con về trển chớ để má nuôi hoài con cũng ngại! Ngặt hỗng có tiền! Má có thương thì thương cho trót!
- Hỗng có thì tao cho! Đem nó dìa trển mà giữ nó! Tiền tao cho mần vốn! Đừng thấy tiền rồi cứ lo ăn chơi! Dìa xin nữa thì tao cạo đầu khô đa!
Hắn dạ dạ hứa hẹn đủ điều. Tôi xót xa nhìn tên bợm trắng trợn làm tiền công khai mà không sao vạch mặt được. Số tiền xương máu của anh tôi đã vào tay dơ bẩn của kẻ bất lương. Má đưa riêng cho tôi một số nữ trang rồi dặn dò:
-Có chồng phải theo chồng!Ráng sửa tâm tánh mà chuộc lỗi lầm! Phần này tao cho riêng để hộ thân đừng cho nó biết!
Cầm gói nữ trang má cho mà lòng đau xót, nhìn má đang mê muội không nhìn thấu cai võ rỗng tếch của thằng "rễ bịp", cứ dại dột bắt tôi đút cổ vào cái thòng lọng.
Nắng đi mưa ở chẳng đành
Chim oanh đậu lộn trên cành họ "Lưu"
Trên trời lấp lánh sao Ngưu
Kiếp xưa chắc có oán cừu với ai
Tình hình chiến trận Pleime được nhắc nhở nhiều nhất trong năm 1965, vì trận này được tham chiến của Sư Đoàn 1 Bộ Binh không Vận Mỹ tại thung lũng Ia Drang. Việt Cộng bắt đầu tấn công chiều ngày 19-10-1965, bị pháo kích cho đến ngày 29-10-1965 mới chấm dứt. Việt Cộng xâm nhập lên đến 221.000 ngàn người.

Lần đầu tiên phi cơ B-52 được xử dụng để yểm trợ cho Bộ Binh. Có tất cả 672 phi vụ Không Quân Mỹ được xử dụng để yểm trợ cho chiến trường Pleime.
Đại Tá H-Clark Lữ Đoàn Trưởng bị tử thương trong khi bay thị sát cuộc hành quân.
Đại Tá H-Clark Lữ Đoàn Trưởng bị tử thương trong khi bay thị sát cuộc hành quân.
Ngày 26-10-1965, Tướng W.Westmoreland đã đáp trực thăng xuống cạnh Tiểu Đoàn 2/17 Pháo Binh Mỹ đang tác xạ yểm trợ cho chiến trường Pleime, để ra lệnh cho Thiếu Tướng H.W.O.Kinnard, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Không Vận, tổ chức hành quân truy kích đơn vị CS đã tham dự mặt trận Pleime.
Tổng số quân đội Mỹ vào cuối năm 1965 là 181.000, đã tăng lên 385.000 vào cuối năm 1966.
Bỏ con ở lại theo chồng
Vọng theo tiếng khóc xé lòng của con
Tội tình chi hỡi chim non
Chim xa lìa mẹ khi còn ấu thơ
Hắn đưa tôi về Sàigòn vào cuối năm 1965. Lúc ấy hai anh Thanh và Cường làm trong Quân Vụ Thị Trấn, hai anh còn độc thân, được cấp phòng trong thành Phi đường Sư Vạn Hạnh, gần chợ An Đông. Đêm đầu, con gái nhớ bà ngoại nên khóc cả đêm không ngủ.Sáng hôm sau hắn bắt tôi đem nó về lại cho bà ngoại. Mặc cho con ôm lấy tôi khóc nức nở, mặc tôi bịn rịn. Hắn trừng mắt nạt:
-Con với cái! Khóc trù ẻo nên nghèo tàn mạc!
- Nó còn nhỏ biết gì mà anh mắng con!
-Nuôi chi thứ con gái cho uổng công! Mai mốt cũng giống con gái mẹ!Toàn thứ đàn bà phản bội!Tôi đâu có làm gì nó mà nó sợ tôi dữ vậy? Hết con rồi tới mẹ! Tiếc từng lời nói, tiếc từng tiếng cười!
Tôi cay đắng:
-Tại sao tôi phải cười với người mà tôi khinh bỉ! Anh chỉ giữ được thân xác tôi thôi! Còn trái tim tôi cho người khác rồi! Bòn được mớ tiền của má rồi mặc sức mà ăn chơi!Anh đâu cần tôi nữa để làm gì!
Hắn cười khảy:
-Cái kế ấy xưa rồi Diễm! Cô đừng tưởng tôi ngu dại để cô ở đây để dễ bề trốn theo tình nhân! Cứ chửi đi ai thiệt cho biết!Thương hay không cô cũng phải theo tôi mà thôi! Anh cô đâu còn mà làm kỳ đà cản mũi!
Má nghe tất cả nhưng dửng dưng không phản ứng. Con gái sợ lấm lét nhìn hắn, buông tôi ra nó chạy lại nắm tay ngoại cầu xin:
-Ngoại ơi! Đừng bắt má phải theo ba! Con hỗng theo ba đâu!Con ở với ngoại hà!
Quay sang tôi nó cầu khẩn:
-Má đừng bỏ con nghen má!
Tiếng con như tiếng chim non kêu thương làm tim tôi nhói đau, những lời van xin của cháu không làm mềm lòng bà ngoại. Còn lời van xin của tôi như trôi vào khoảng không. Tôi là kẻ "đắc tội", bị tướt đoạt quyền làm mẹ. Còn người cha "ích kỷ" kia giả điếc không nghe, giả mù không thấy. Nhìn con tôi tuyệt vọng não nề, đường về Sài gòn xe bắt đầu thưa, tân binh từ sân bắn lần lượt trở về Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp. Nắm tay tôi hắn hối:
-Lẹ lên! Hông thôi hết xe bây giờ! Để nó ở lại với ngoại!
-Con với cái! Khóc trù ẻo nên nghèo tàn mạc!
- Nó còn nhỏ biết gì mà anh mắng con!
-Nuôi chi thứ con gái cho uổng công! Mai mốt cũng giống con gái mẹ!Toàn thứ đàn bà phản bội!Tôi đâu có làm gì nó mà nó sợ tôi dữ vậy? Hết con rồi tới mẹ! Tiếc từng lời nói, tiếc từng tiếng cười!
Tôi cay đắng:
-Tại sao tôi phải cười với người mà tôi khinh bỉ! Anh chỉ giữ được thân xác tôi thôi! Còn trái tim tôi cho người khác rồi! Bòn được mớ tiền của má rồi mặc sức mà ăn chơi!Anh đâu cần tôi nữa để làm gì!
Hắn cười khảy:
-Cái kế ấy xưa rồi Diễm! Cô đừng tưởng tôi ngu dại để cô ở đây để dễ bề trốn theo tình nhân! Cứ chửi đi ai thiệt cho biết!Thương hay không cô cũng phải theo tôi mà thôi! Anh cô đâu còn mà làm kỳ đà cản mũi!
Má nghe tất cả nhưng dửng dưng không phản ứng. Con gái sợ lấm lét nhìn hắn, buông tôi ra nó chạy lại nắm tay ngoại cầu xin:
-Ngoại ơi! Đừng bắt má phải theo ba! Con hỗng theo ba đâu!Con ở với ngoại hà!
Quay sang tôi nó cầu khẩn:
-Má đừng bỏ con nghen má!
Tiếng con như tiếng chim non kêu thương làm tim tôi nhói đau, những lời van xin của cháu không làm mềm lòng bà ngoại. Còn lời van xin của tôi như trôi vào khoảng không. Tôi là kẻ "đắc tội", bị tướt đoạt quyền làm mẹ. Còn người cha "ích kỷ" kia giả điếc không nghe, giả mù không thấy. Nhìn con tôi tuyệt vọng não nề, đường về Sài gòn xe bắt đầu thưa, tân binh từ sân bắn lần lượt trở về Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp. Nắm tay tôi hắn hối:
-Lẹ lên! Hông thôi hết xe bây giờ! Để nó ở lại với ngoại!
Trong lúc con vừa mất người cậu thương yêu, nó đang cần vòng tay yêu thương săn sóc của mẹ, thế mà hắn tàn nhẫn bức lìa đi. Theo lệnh của má tôi bước theo hắn mà tim nhói đau, không dám quay lại, chỉ nghe tiếng khóc xé ruột của con vọng theo mà ứa nước mắt.
Chuyến xe "Định Mệnh" đưa tôi trở về lối cũ, trở lại kiếp "nô lệ" ngày nào. Lưng tôi còm xuống vì gánh sầu quá nặng trên vai. Gia tài của Nhơn tôi mang theo là 7 ngày hạnh phúc ngắn ngủi, dấu trong tim hình bóng của anh, để nuối tiếc, để nhớ thương rồi hối hận.
Chiều đi tình đắng trăm miền
Nghe tình yêu chết nghe điên đảo đời
Chiều đi tình dở dang rồi
Trong tim ta dấu bóng người yêu xưa
Hắn không buồn khi bỏ con lại cho má, mà hí hửng vui vì trong túi đầy tiền, thêm có tôi một "con ở" không công. Hắn dẫn tôi lên miệt Lái Thiêu nhà của người vợ bạn. Đôi vợ chồng trẻ mới cưới chưa có con, người vợ trẻ hiền lành cũng nửa quê nửa chợ như tôi. Căn nhà ngói âm dương cũng giống kiểu nhà của má tôi, nằm lọt thủm giữa vườn cây ăn trái, nhiều nhất là măng cụt với dâu tây. Mương con đầy nước xen lẫn giữa hai hàng câu măng cụt thẳng tấp. Trong xóm mái nhà tranh lưa thưa bao quanh rẫy củ sắn.
Tôi thấy chị có một mình, tôi đoán có lẽ ba mẹ chị đi vắng? Chị tiếp đãi rất nồng hậu, bữa ăn có món cà dồn thịt, bắp cải xào cần tàu với cà chua. Hắn o bế tôi bằng cách gấp thức ăn, cử chỉ thì dịu dàng lời nói thì hoà nhã, quá tử tế với tôi. Không ai biết được hắn đang "đóng kịch", vì mới ẩm được một số tiền khá lớn.
Khi trở lại thành Phi thì gặp anh Nguyễn Tri Ái bạn của hai anh Thanh và Cường. Ái mời ra nhà, nhà anh khu Bến Hàm Tử. Vợ Ái tên Thanh, Thanh cùng tuổi với tôi. Thanh có nghề may. Hai vợ chồng là dân Huế mới cưới nhau, rất xứng đôi và đẹp người. Dù mới quen nhau, mà Ái giúp đỡ hết lòng bằng tình bạn chân thành. Ái thuê dùm căn gác phía sau, tôi chỉ phụ tiền đi chợ nấu ăn chung cho đỡ tốn, còn đồ đạc thì Ái cho mượn tạm.
bày tâm sự nhờ Ái tìm dùm Nhơn... nhưng chẳng dám mở lời vì sợ Ái "khinh" và đánh giá mình là người đàn bà lãng mạn hư hỏng, có chồng mà còn ngoại tình. Nghĩ lại mình làm khổ Nhơn quá nhiều, sợ anh không tha thứ, phần xấu hổ nên tôi bỏ ý định không tìm Nhơn nữa. Xin lỗi anh em đã phụ anh rồi! Và em phải sống trong nỗi ân hận và tiếc nuối suốt đời.
Tôi thấy chị có một mình, tôi đoán có lẽ ba mẹ chị đi vắng? Chị tiếp đãi rất nồng hậu, bữa ăn có món cà dồn thịt, bắp cải xào cần tàu với cà chua. Hắn o bế tôi bằng cách gấp thức ăn, cử chỉ thì dịu dàng lời nói thì hoà nhã, quá tử tế với tôi. Không ai biết được hắn đang "đóng kịch", vì mới ẩm được một số tiền khá lớn.
Khi trở lại thành Phi thì gặp anh Nguyễn Tri Ái bạn của hai anh Thanh và Cường. Ái mời ra nhà, nhà anh khu Bến Hàm Tử. Vợ Ái tên Thanh, Thanh cùng tuổi với tôi. Thanh có nghề may. Hai vợ chồng là dân Huế mới cưới nhau, rất xứng đôi và đẹp người. Dù mới quen nhau, mà Ái giúp đỡ hết lòng bằng tình bạn chân thành. Ái thuê dùm căn gác phía sau, tôi chỉ phụ tiền đi chợ nấu ăn chung cho đỡ tốn, còn đồ đạc thì Ái cho mượn tạm.
Nhìn anh chạnh nhớ người năm ấy
Cái nét kiêu hùng của cố nhân
Em đi chiều ấy không trở lại
Một bước xa anh nhuốm phong trần !
Em đi chiều ấy không trở lại
Một bước xa anh nhuốm phong trần !
Nhìn Ái, cái nét kiêu hùng của người trai Huế, gương mặt khôi ngô kia khiến tôi chạnh nhớ cố nhân. Nhiều lần tôi rất muốn giải
Tình vui trong giây phút
Tiếc nhớ cả một đời
Mất anh tình hao hụt
Muốn tìm rồi lại thôi !
Tôi không thể ngồi than vắn thở dài, tiếc nuối mãi mối tình tan vỡ đó, phải vì con mà nghĩ đến tương lai, phải vì con mà can đảm đứng lên đối diện với mọi nghịch cảnh. Tôi vốn thích nghề may, sẵn có số tiền má cho riêng, làm liều đi mua giàn máy may và bắt đầu tập đạp. Chiếc áo đầu tiên tập may là chiếc áo bà ba, dù không khéo lắm nhưng chẳng đến nỗi tệ, tôi nhận kết dù rồi may dù.
Còn Thanh vợ của Ái được hắn giới thiệu đi làm trong trại Lê Văn Duyệt. Thanh có chiếc xe Vélo Solex đen để làm chân. Từ hôm đi làm thì tính tình Thanh thay đổi hẳn, cô Thanh thợ may ngày nào bỗng nhiên cỗi lớp, diện áo đầm thật kẻng theo lối Tây Phương và bắt đầu lên chân hai vợ chồng Ái-Thanh lại lục đục.
Bến Hàm Tử , khu lao động nằm bên phải trước khi qua cầu chữ Y, khu này nằm bên phải trước khi qua cầu chữ Y, khu này sống bằng nghề may quần áo, đồ lót, may dù... Một số, sống bám theo cái phông tên nước ngoài đầu hẻm, làm nghề gánh nước mướn. Bến Hàm Tử với những căn gác ọp ẹp, những mái tôn nóng bức ẩm thấp, đời sống chật vật khó khăn, phương tiện di chuyển bằng xe đạp, xe gắn máy sặc mùi khói.
Đứng trên gác phía sau, chỉ cách một bức tường cao , tương phản với xóm lao động nghèo nàn là dẫy lầu cao sang trọng của người Tàu với đời sống trưởng giả, giàu sang và quyền lực, hào nhoáng với xe hơi nhà bóng lộn, cuộc sống dư thừa vật chất. Hoạt cảnh sống thực diễn ra hằng ngày, mà ranh giới giai cấp được phân chia là bức tường gạch thật cao.
Hai mẹ con tôi dù sống ở quê, nhưng nhà cửa rộng rãi thoải mái, từ nhỏ tôi chưa lần ở nhà tranh, nhà tôn, chưa lần phải sống chật hẹp tù túng chen chúc như con giun cái kiến. Con gái tôi nó không thích mấy vì không có nơi chạy nhảy vui đùa, nhưng được là có mẹ bên cạnh, nên nó cũng chấp nhận cuộc sống nghèo.
Đến nước này rồi, tôi đành phải sống cam phận và chịu đựng. Khi vui, mọi việc theo ý hắn thì hắn tỏ vẻ tha thứ. Lúc buồn, làm trái ý hắn thì hắn moi tất cả tội lỗi của tôi ra mà bêu riếu. Hắn bực mình vì tôi lạnh nhạt, hắn lại chửi mắng, đem chuyện tôi ngoại tình
ra mà nhục mạ trước mặt con.
Với chồng đắng chữ tình yêu
Ái ân cũng nhạt như chiều cuối Đông
Không yêu phải gọi bằng chồng
Như con chim nhỏ trông lồng khó ra
Con đường của con đi, không được trồng bằng hoa thơm, cỏ lạ để trang điểm cho tuổi thơ lớn khôn, mà hắn chỉ trồng cho con toàn là gai óc ó, gai ba rô. Gai cào sướt trên da thịt non nớt của con thành những vết sẹo thâm đen để đời. Nó chỉ thấy cảnh cha mẹ bất hoà, lòng ích kỷ, bạo động của cha, sự hư hỏng của mẹ.
Có cha nhưng thiếu tình thương
Chuyện vui chẳng thấy chuyện buồn cứ qua
Có cha nhưng thiếu tình cha
Chỉ nhìn thấy cảnh bất hoà mà thôi !
Con cái không chỉ cần cái ăn, cái mặc, mà cần món ăn tinh thần để trưởng thành, đó là tình thương thật sự của cha mẹ. Thế mà hắn chẳng cho con những thứ đó, lại tướt đoạt cái tuổi ngây thơ hồn nhiên của con. Chưa bao giờ hắn nói lời yêu thương, mà nó chỉ nhận những lời chửi rủa, gán những tội mà nó chưa hề phạm phải. Hắn cố ý "đầu độc" vào trí óc non nớt của con, hình ảnh người mẹ xấu xa tồi bại, để con thấy hắn mới chính là nạn nhân đáng thương. Nhưng con gái tôi lại khôn trước tuổi, tôi không cần giải thích, hay lôi kéo con về phe mình, mà chính nó nhận thức được hành động vô lương tâm bất nhân kia.
Hai tháng trôi qua... thấy tôi phục tùng không có ý trốn nữa nên hắn cho tôi mang con gái lên. Nhằm ngày lễ Giáng Sinh, hắn chở nó trại Lê Văn Duyệt dự lễ, nó nhận rất nhiều quà cũng khoảng 5, 6 con búp bê và chụp hình với cố vấn Mỹ.
Thanh lại gây chuyện không muốn nấu ăn chung với tôi nữa. Ái khuyên giải hết lời, nhưng Thanh chẳng nghe còn ấu đã với tôi một trận rồi tuyệt giao luôn. Ái rất buồn vì thương bạn nên đâm ra khó xử. Tôi đành sắm sửa nấu ăn riêng, hai đứa chẳng chào hỏi nhau nữa. Ái vì trong nhà binh nên thường vắng nhà, còn mẹ Ái đôi khi phải về với con gái bên Hoà Hưng, chỉ có đứa cháu trai gọi Ái bằng chú ở đấy.
Tiếng còi giới nghiêm vang dội trên thành phố và vùng phụ cận, mọi sinh hoạt ngưng đọng, lưu thông chỉ có xe tuần tiểu của Cảnh Sát hoặc Quân Cảnh mà thôi.Nhà nhà đều cửa đóng, then cài, nhưng trong xóm của Bến Hàm Tử vẫn còn nghe tiếng máy may chạy rè rè suốt đêm.
Bỗng tiếng đập cửa gấp rút khiến tôi thức giấc hoảng hốt tông mền, vội chạy ra mở cửa thì là cháu trai của Ái đang quýnh quáng nói không ra tiếng:
-Thiếm Hội! lên xem ...lên xem... dùm! Thiếm tôi.. mần răng rứa!
Tôi quên hết giận hờn hối hả chạy lên căn gác trước. Vén màn lên thì thấy Thanh đang nằm trên giường mà đầu đứa bé đã nhô ra. Tôi ngạc nhiên quá đổi vì không biết Thanh có bầu bao giờ? Nhìn quanh không thấy khăn, tôi bảo hắn về lấy rồi đi gọi dùm y tá. Khi bà y tá đến thì đứa bé đã ra ngoài đang oe oe khóc, bà nhìn qua bảo:
-Tôi chỉ cắt dùm rún thôi! Phải đem đi nhà thương gấp!
Bà kề tai tôi thì thào:
-Cô ấy sanh nhằm quái thai!
Tôi giật mình, chết sững không dám nói với Thanh sự thật đau lòng đó. Nhìn gương mặt nó rất xinh, từ ngực trở lên với hai cánh tay thì bình thường, chỉ từ rốn trở xuống, dưới bụng có một miếng thịt dư đỏ hỏn bằng nắm tay, đôi chân thì tréo ngược lên, phần hậu môn và sinh dục không có nên không biết trai hay gái?
Nhằm vào giờ giới nghiêm nên hắn đi kêu Cảnh Sát, tôi bế đứa bé đưa Thanh vào bệnh viện Từ Dũ. Sáng hôm sau về thì gặp mẹ Ái từ Hoà Hưng về, tôi lại đưa cụ vào thăm nàng dâu. Đứa bé chỉ sống được 3 ngày, được bà cụ chôn cất tử tế.
Sau ngày Thanh xuất viện, dù chào hỏi nhau, nhưng ngượng ngùng làm sao ấy. Cái tình thân thiện ngày xưa chẳng còn nữa, còn hàng xóm thì xầm xì, bởi ngày nào Thanh gây gổ rồi tuyệt giao với tôi, đến khi gặp chuyện lại phải nhờ vả vào tôi vì không ai giúp. Riêng tôi chẳng có gì thù ghét Thanh cả, việc tôi giúp Thanh lúc hoạn nạn vốn lòng từ tâm, và tôi nghĩ cái ơn của Ái giúp mình lúc trước.
Sau đó không lâu thì Thanh với Ái chia tay. Thanh lặng lẽ dọn đi không một lời từ giã. Thời gian sau, Ái lập gia đình khác, có đem vợ về giới thiệu, vợ sau này quê miệt Long Khánh. Tôi dời lên căn gác của Thanh.
Vào những năm 1960-1967, thanh thiếu niên Sàigòn bị ảnh hưởng bởi tác phẩm Điệu Ru Nước Mắt của nhà văn Duyên Anh. Nhân vật khét tiếng trong giới du đảng Sàigòn là Đại Cathay. Đám thanh thiếu niên trong đó có hắn tập làm anh chị bự. Lúc ở với cô Hai Tùng hắn còn nể nang chứa dám mang ai về nhà, vừa ở Bến Hàm Tử chẳng bao lâu cái mặt trái của hắn bắt đầu lộ diện.
Hắn xách xe jeep đi luôn tuồng với đám băng đảng Quốc Thanh, có vài đứa đến nhà, tôi chỉ nhớ vài đứa như Hùng đầu bò, Ana... Hắn dựa hơi hãnh diện là dân giang hồ, tưởng mình "ngầu" lắm vì dưới trướng có dăm ba đàn em nể phục, ra vẻ dân chơi đầy kinh nghiệm, nhưng thật ra là bọn "ăn lường, chơi chạy" , thường la cà trong ấy cái "động" chứa gái trá hình, bar rượu... để kiếm áp phe.
Đêm ấy tôi vừa nằm xuống không lâu, thì chợt nghe có nhiều tiếng bước chân bước nhè nhẹ lên thang gác. Tiếng con gái nghe rất khẻ, hé mùng nhìn ra tôi thấy hai cô gái với hai cái túi quần áo, còn hắn thì đang trải mền ra sàn gác. Người con gái dong dỏng cao hỏi nhỏ:
Hắn xách xe jeep đi luôn tuồng với đám băng đảng Quốc Thanh, có vài đứa đến nhà, tôi chỉ nhớ vài đứa như Hùng đầu bò, Ana... Hắn dựa hơi hãnh diện là dân giang hồ, tưởng mình "ngầu" lắm vì dưới trướng có dăm ba đàn em nể phục, ra vẻ dân chơi đầy kinh nghiệm, nhưng thật ra là bọn "ăn lường, chơi chạy" , thường la cà trong ấy cái "động" chứa gái trá hình, bar rượu... để kiếm áp phe.
Đêm ấy tôi vừa nằm xuống không lâu, thì chợt nghe có nhiều tiếng bước chân bước nhè nhẹ lên thang gác. Tiếng con gái nghe rất khẻ, hé mùng nhìn ra tôi thấy hai cô gái với hai cái túi quần áo, còn hắn thì đang trải mền ra sàn gác. Người con gái dong dỏng cao hỏi nhỏ:
-Anh hỗng hỏi trước! Hỗng biết vợ anh có cho tụi này ở không? Hắn tỏ ra chủ gia đình:
-Cần gì phải hỏi ai! Ở hay không là quyền của anh!
Một lúc sau, hắn chui vào mùng nhè nhẹ đặt lưng xuống, tôi giả vờ ngủ say mà trong lòng tức ấm ách. Sáng hôm sau, tôi thức dậy thì hắn với 2 cô gái còn ngủ thẳng cẳng. Con gái chạy ù vào hốt hoảng:
-Má ơi! Mấy cô nào ngủ nhà mình vậy?
Tiếng của con hơi lớn làm hắn tỉnh giấc càu nhàu:
-Đi chổ khác chơi cho người ta ngủ!
Tôi tức nắm cái mền kéo mạnh:
-Anh lộng quá rồi! Đem con gái về nhà nửa đêm, nửa hôm! Nắng lên mấy sào rồi còn ngủ! Lại còn nạt nộ con tôi nữa!
Hắn đính chánh:
-Tụi nó là em nuôi của tôi! Tôi cho tụi nó ở tạm một thời gian! Đừng ghen tương lộn xộn làm mất mặt tôi!
Tôi bĩu môi mai mĩa:
-Anh đâu là gì của tôi mà tôi ghen! Thì ra anh có thêm nghề chủ chứa!
-Đ M! Chuyện nhà hỗng lo ở đó nói móc họng! Muốn yên thân thì đừng xía vào chuyện của tôi!
Hắn to tiếng làm con sợ nép sau lưng tôi, tự biết nếu mình giận nói nhiều chỉ thiệt thân mà thôi, để tránh cảnh gây gổ trước mặt con, tôi bế nó bỏ xuống gác. Nó đột ngột hỏi:
-Mấy cô ấy là ai? Sao ba lại đem họ về nhà? Rồi trở lại còn rầy má nữa!
Bị nó hỏi bất ngờ làm tôi lúng túng, chỉ biết ôm ghì lấy con mà ứa nước mắt, đôi tay bé nhỏ của nó ôm vòng quanh cổ tôi an ủi:
-Thây kệ ổng! Có con thương má đủ rồi! Và cậu Nhơn cũng thương má nữa! Mà sao lâu quá cậu không về thăm mình?
Anh có nghe không, con lại nhắc đến anh nữa rồi! Làm em càng nhớ đến anh nhiều hơn, ôm con mà nước mắt cứ tuôn.Trong nhẫn nhục và chịu đựng, vì con tôi phải sống với "kẻ thù", vì con phải sống với người " không thương". Làm vui lòng má là tự giết chết đời mình. Một ngày sống với kẻ mình oán, mình thù, nó dài... như một thế kỷ. Càng nhịn, hắn càng làm tới, trong lòng dù bực tức, tôi chỉ biết nuốt cay đắng, để cho hắn chứa gái trong nhà.
Anh có nghe không, con lại nhắc đến anh nữa rồi! Làm em càng nhớ đến anh nhiều hơn, ôm con mà nước mắt cứ tuôn.Trong nhẫn nhục và chịu đựng, vì con tôi phải sống với "kẻ thù", vì con phải sống với người " không thương". Làm vui lòng má là tự giết chết đời mình. Một ngày sống với kẻ mình oán, mình thù, nó dài... như một thế kỷ. Càng nhịn, hắn càng làm tới, trong lòng dù bực tức, tôi chỉ biết nuốt cay đắng, để cho hắn chứa gái trong nhà.
Vì con tôi cố gượng cười
Vì con tôi sống với người không thương
Vì con nào quảng gió sương
Vì con tôi dấu nỗi buồn riêng tư
Vì con sống với kẻ thù
Vì con tôi phải giả mù sa mưa
Vì con sống với kẻ thù
Vì con tôi phải giả mù sa mưa
Mỗi khi chán nản tuyệt vọng, lời nói của con đã cho tôi thêm nghị lực để chịu đựng. Mỗi khi nhìn vào đôi mắt xinh đẹp buồn bả của con, niềm đau như tan biến. Có nó bên cạnh, tôi cảm thấy mình thật diễm phúc vô cùng, và thấy sự hy sinh của mình không vô ích.
Cơn mưa hôm qua, làm con hẻm xóm lao động nước ngập như ruộng, cái chợ chòm hỏm quá lầy lụa nhốp nháp và dơ bẫn . Một tay bế con, một tay xách giỏ, mõi tay muốn rụng, mà nó nhất định không chịu đứng xuống vì sợ dơ. Đi ngang qua mấy hàng bán đồ chơi, không khi nào nó đòi vào, vì nó biết tôi không có tiền, tự nó an phận nên không bao giờ đòi hỏi. Những lúc hắn bạo hành, sợ con bị ảnh hưởng, tôi lại phải mang nó về gửi ngoại.
Thuý
Cô gái dong dỏng cao, có mái tóc thề ra vẻ nữ sinh, gương mặt nhỏ, đẹp người tên Thuý gốc Mỹ Tho. Liên tóc ngắn, tướng hơi thấp, gương mặt hơi bẹt trông xanh xao bệnh hoạn, hai răng cửa hở, dân Sàigòn, bỏ học trốn gia đình đi bán bar. Tôi không biết Thuý với Liên làm ở bar nào? Và tôi cũng không biết hai đứa phải đóng cho hắn bao nhiêu tiền để bảo vệ?
Không chỉ những cô gái quê mà cả nữ sinh, những bà có chồng lính, sĩ quan... cũng làm cái nghề đó. Cũng như nghề bán đồ Mỹ chợ đen bành trướng rộng, mà nghề bán bar rất thịnh hành, từ khi lính Mỹ cùng đồng minh tham chiến tại Việt Nam. Phần nhiều là bar trá hình, các cô phải đóng tiền nhờ băng đảng bảo vệ, và cái tên "Sàigòn tea" được khai sanh từ đó. Cái nghề bán bar như con vạc ăn đêm, còn hắn sống mối lái theo đó nên thường vắng nhà luôn. Hắn luôn giữ bí mật chổ làm ăn, phần cấm tôi giao thiệp nhiều với hàng xóm, tôi chỉ được " phép" đi lại trong khu Bến Hàm Tử mà thôi, và luôn luôn có tai mắt của bọn đàn em hắn kiểm soát.
Đôi khi vui thì hắn đưa tiền chợ, tôi nhờ may nên kiếm chút đỉnh tiền xây xài và sắm quần áo cho con. Nó thích mầu trắng, nên tôi hay thêu những con thú nho nhỏ dễ thương trên áo.
Tôi dành tất cả thời giờ cho con làm hắn cay cú ganh tị:
-Sao cái gì em cũng lo cho con em hết vậy?
Tôi không ngạc nhiên lắm khi nghe hắn thốt lên những lời đó, tôi mai mĩa:
-Phải rồi nó là con của tôi! Tôi chỉ có mình nó, hỗng lo cho con thì lo cho ai? Chẳng lẽ anh biểu tôi lo cho con hàng xóm!
Nhìn bạn bè, lối xóm người nào cũng đẻ sồn sồn năm một, còn tôi thì không bầu bì gì nữa cả làm hắn càng tức. Hắn dùng thuốc kích thích, tìm muôn ngàn cách cho tôi sanh thật nhiều con để cột chân, nhưng tôi vẫn trơ như tượng đá. Hắn chỉ giữ được thân xác tôi, còn phần hồn thì đã lạc mất phương nào rồi. Hắn tra vấn:
-Nhà em đông! Con đã hơn 4 tuổi rồi sao em hỗng bầu nữa vậy? Hay là em lén uống thuốc ngừa thai phải hông?
Tôi nỗi cáu:
-Anh thấy tôi uống thuốc bao giờ? Chỉ có một đứa con nuôi còn hỗng nỗi! Muốn đẻ như cả bầy heo thì có nước đi ăn mày!
Hắn sẵn giọng bắt lỗi:
-Bộ kỵ cái tiếng em hay sao mà lúc nào cũng xưng tôi hết vậy?
-Tại tôi là gái quê hỗng biết đĩ miệng! Chịu hỗng được thì đi tìm mấy con điếm nó chìu chuộng cho!
Hắn đổ quạu:
- Cô khi dễ tôi vừa vừa chứ! Thằng này đâu phải thứ đồ bỏ! Thiếu gì con gái 15, 16 tuổi nó theo! Cô già háp rồi có ngày tôi về với vợ tôi! Tôi cho cô rơi đài đấy!
Tôi chẳng vừa gì trả đủa lại ngay:
-Bỏ thử coi! Tôi thách anh đấy! Chắc là tôi phải lạy lục khẩn cầu, chớ không thôi tiền của má hỗng ai xài, nó cắn túi má rách hết!
Hắn giở giọng đểu:
-Cô tưởng tôi cần cô lắm hả? Có người hầu hạ, có tiền xài tội gì mà bỏ cho uổng! Tội ngoại tình tôi chưa tha đâu!
Tôi bướng bỉnh, chọc tức:
-Anh đâu phải chồng tôi đâu mà bảo là ngoại tình hay nội tình!
Mỗi lần nhắc đến vợ, hắn cay cú, nhưng tôi biết hắn còn yêu vợ tha thiết lẫn oán hận. Tôi lo sợ, một ngày nào đó vợ hắn lại đánh ghen, sợ là nạn nhân của "Hoạn Thư", sợ kiểu ghen mất nhân tính. Thế nhưng... vợ hắn đâu? Muốn khai thác mấy đàn em của hắn, thì tụi nó chỉ cười trừ không nói. Với hắn tôi không có những bữa cơm gia đình đầm ấm, có những đêm ngồi chờ bên mâm cơm khô lạnh , rồi mòn mỏi ngủ gục trên bàn may với cái bụng đói.
-Bỏ thử coi! Tôi thách anh đấy! Chắc là tôi phải lạy lục khẩn cầu, chớ không thôi tiền của má hỗng ai xài, nó cắn túi má rách hết!
Hắn giở giọng đểu:
-Cô tưởng tôi cần cô lắm hả? Có người hầu hạ, có tiền xài tội gì mà bỏ cho uổng! Tội ngoại tình tôi chưa tha đâu!
Tôi bướng bỉnh, chọc tức:
-Anh đâu phải chồng tôi đâu mà bảo là ngoại tình hay nội tình!
Mỗi lần nhắc đến vợ, hắn cay cú, nhưng tôi biết hắn còn yêu vợ tha thiết lẫn oán hận. Tôi lo sợ, một ngày nào đó vợ hắn lại đánh ghen, sợ là nạn nhân của "Hoạn Thư", sợ kiểu ghen mất nhân tính. Thế nhưng... vợ hắn đâu? Muốn khai thác mấy đàn em của hắn, thì tụi nó chỉ cười trừ không nói. Với hắn tôi không có những bữa cơm gia đình đầm ấm, có những đêm ngồi chờ bên mâm cơm khô lạnh , rồi mòn mỏi ngủ gục trên bàn may với cái bụng đói.
Cô đơn lệ đắng đêm tàn
Qua giới nghiêm hắn mới mò về, trên người mùi nước hoa thơm lừng, trên áo dính vết son, có tình chọc cho tôi ghen. Thế mà tôi vẫn phớt lờ dửng dưng càng làm hắn cay cú. Hiếm hoi lắm mới về đúng giờ cơm, thì lại kiếm cớ tra khảo, để hành hạ tinh thần:
-Đ M ! Ở nhà làm cái giống gì mà cơm nguội lạnh như thế này? Bộ lật đật nấu để đi chơi phải không?
Đôi khi cơm vừa nấu xong còn nóng cũng bị mắng:
-Đ M! Sao cơm lại nóng như thế này? Bộ mới đi chơi về lật đật nấu phải không?
Tôi nuốt cơn nghẹn:
-Tôi phải hầu hạ anh cách nào mới vừa lòng anh? Anh lăng nhăng hết cô này tới cô khác tôi vẫn không nói! Tôi thừa biết anh cố tình hành hạ tôi để trả thù tôi mà!
-Cô lạnh lùng như tượng đá làm sao tôi chịu đựng được! Sống với tôi mà cứ tư tưởng thằng khác!
-Biết thế anh còn bắt tôi về đây để làm gì? Tôi chẳng bao giờ xin lỗi đâu! Anh cầm tù tôi để thoả mãn cái tự ái vì bị tôi phản bội! Anh dù có trăm mưu ngàn kế cũng chưa chắc là anh sẽ giữ được tôi mãi mãi! Tôi nói trước một ngày nào đó anh sẽ mất tôi!
Hắn nhún vai cười khẩy:
-Hừ! Tới đó hãy hay!
Hắn cay cú bỏ đi, còn tôi lòng hả hê đôi chút khi cho hắn nếm mùi đau khổ vì bị phản bội. Tôi đã quen rồi cảnh "Cơm không lành, canh không ngọt". Cảnh chiến tranh lạnh thường xảy ra luôn. Tôi không biết hắn muốn gì? Có yêu thương tôi thật tình không? Cả một sự bí mật bao trùm con người hắn. Tôi đã mang "bệnh câm" giờ lại mang thêm " bệnh điếc, bệnh mù".
-Hừ! Tới đó hãy hay!
Hắn cay cú bỏ đi, còn tôi lòng hả hê đôi chút khi cho hắn nếm mùi đau khổ vì bị phản bội. Tôi đã quen rồi cảnh "Cơm không lành, canh không ngọt". Cảnh chiến tranh lạnh thường xảy ra luôn. Tôi không biết hắn muốn gì? Có yêu thương tôi thật tình không? Cả một sự bí mật bao trùm con người hắn. Tôi đã mang "bệnh câm" giờ lại mang thêm " bệnh điếc, bệnh mù".
Đã quen cơm đợi, canh chờ
Bão đời cứ tới mấy bờ tang thương
Hận lòng muôn kiếp còn vương
Bao giờ thoát kiếp đoạn trường này đây?
Đâu đây bão vẫn kéo về bất chợt, đôi bờ đất mỗi ngày như cao hơn vì chất thêm mối hận lòng chưa trả. Đến bao giờ cái mặt nạ kia mới rớt? Đến bao giờ ngọn lửa leo lét kia mới thiêu đứt dợi dây xích nghiệt oan này?
Những oan khiên nghiệt ngã
Chờ giờ cháy bùng lên
Mối hận lòng chưa trả
Lời nguyền nào chưa quên!
Tôi chỉ cầu xin cho tôi lòng từ bi, mà tha thứ cho người đã làm khổ mình, đừng cho tôi có ý nghĩ " sát nhân". Xin cho tôi tìm thấy chứng cớ để khỏi mang cái tội "nghi oan" cho hắn. Cầu cho má thức tỉnh để nhìn thấy sự sai lầm.
Ta sống trong ngục tối
Mới thương kẻ tù đày
Ta sống trong lừa dối
Mới biết đời đắng cay !
Trận Chiến A Shau năm 1966
Năm 1966, quân số Hoa Kỳ gia tăng và trận A Shau cũng mở màn. Thung lũng A Shau nằm phía Tây tỉnh Thừa Thiên Huế, nằm trên Biên giới Việt-Lào. thung lũng trãi dài 40km theo hướng bắc nam với khu vực đất trủng, hai bên là hai dãy núi phủ rừng rậm cao từ 3 đến 6 nghìn feet.
Trại A Shau có tiết diện tam giác nằm về phía cực Nam của thung lũng sông Rao Lao, phía Tây tỉnh Thừa Thiên. Trại nằm cách Đà Nẳng khoảng 97 cây số, chỉ cách Huế 48 cây số về phía Tây Nam, và cách biên giới Việt-Lào khoảng 2 cây số rưởi.
Trại A Shau là trại duy nhất còn lại để trấn giữ con đường xâm nhập của CS tiến về duyên hải. Thung lũng A Shau nằm đơn độc tại vùng biên giới Tây Bắc, được bao bọc bởi rừng nhiệt đới dầy đặc, chung quanh là những dãy núi trùng điệp, có ngọn cao hơn 1.500 mét. Sương mù gần như sương phủ quanh năm.
Trại A Shau là trại duy nhất còn lại để trấn giữ con đường xâm nhập của CS tiến về duyên hải. Thung lũng A Shau nằm đơn độc tại vùng biên giới Tây Bắc, được bao bọc bởi rừng nhiệt đới dầy đặc, chung quanh là những dãy núi trùng điệp, có ngọn cao hơn 1.500 mét. Sương mù gần như sương phủ quanh năm.
Trại được phòng thủ bởi toán A-102 Lực Lược Đặc Biệt Hoa Kỳ, chỉ huy bởi Đại Uý J.D.Blair IV và 2 Đại Dội Dân Sự Chiến Đấu. Trong đêm ngày 8 tháng 3 lúc 1:30 sáng , căn cứ cho nổ quả mìn Claaymore về hướng có địch quân cắt hàng rào kẻm gai.
Đến 3:50 phút sáng ngày 9-3. Cộng Sản Bắc Việt pháo kích vào trại LLĐB A Shau bằng súng cối 82, liên tục 3 tiếng đồng hồ. Quân trú phòng phản ứng dữ dội làm Địch quân phải rút lui. Tổn thất nhân sự sau 3 tiếng đồng hồ pháo kích:
-2 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ tử trận
-5 Lực Lượng Đặc biệt Hoa kỳ bị thương
-25 Dân Sự Chiến Đấu bị thương
-7 Mike Force tử trận
-14 Mike Force bị thương
-1 thường dân bị chết
-1 thường dân bị thương
Khoảng 1 giờ chiều phi cơ vận tải C-47 bay đến căn cứ , bay theo hướng Tây Bắc xuống Đông Nam và bị trúng đạn phòng không, rơi xuống cách trại LLĐB 5 dặm về hướng Bắc. Trực thăng vào cứu được 3 phi đoàn và 3 người khác tử trận.
Đến 2:15 phút chiều , một phi cơ thả dù tiếp tế đạn dược, dụng cụ cứu thương rơi ra hàng rào, nhưng một đơn vị trong căn cứ ra ngoài đem về được. Đến 4:30, một phi cơ C-123 khác thả thêm mấy kiện hàng tiếp tế, đạn dược , quân trú phòng thâu được khoảng 50%. Đến 5 giờ chiều, phi cơ thả thêm một đợt tiếp cho căn cứ, cũng chỉ thu hồi một nửa. Và một phi cơ VH-1 bay vào căn cứ di tản thương binh, chiếc này bị trúng đạn không cất cánh lên được. Hoa Kỳ phải gửi lên căn cứ một trực thăng CH 53 di tản được 26 người bị thương trước khi trời tối. Tối đêm đó phi cơ bay bao vòng thả hoả châu chiếu sáng cả đêm.
Tuy nhiên vì mây che phủ, nhiều trực thăng không vào được. Khi chiếc trực thăng đáp xuống, dân sự chiến đấu Thượng đã quá sợ hãi dành lên đầy một trực thăng làm một chiếc không cất cánh được, sau đó trúng đạn pháo kích hư hại phải bỏ lại. Chuyến đầu chỉ đem về được 69 quân nhân, trong đó có 4 LLĐB Hoa Kỳ bị thương. Hai trực thăng chở quân H-34 bị phòng không bắn rơi.
Đến 5:45 trực thăng không thể vào đón chuyến nữa vì hoả lực của phòng không của địch, vị chỉ huy trưởng bô chỉ huy C-1 LLĐB ngoài Đà Nẳng tuyên bố trại LLĐB A Shau đóng cửa.
Đến 6 giờ chiều, số quân nhân sống sót còn kẹt lại gồm có: 7 quân nhân mũ xanh LLĐB Hoa Kỳ, trong đó có một người bị thương nặng, 40 quân xung kích Mike Fore, 50 dân sự chiến đấu và phi hành đoàn 2 trực thăng TQLC Hoa Kỳ. Người lính LLĐB Hoa Kỳ bị thương đã chết gần bãi đáp trực thăng.
Đến 3:50 phút sáng ngày 9-3. Cộng Sản Bắc Việt pháo kích vào trại LLĐB A Shau bằng súng cối 82, liên tục 3 tiếng đồng hồ. Quân trú phòng phản ứng dữ dội làm Địch quân phải rút lui. Tổn thất nhân sự sau 3 tiếng đồng hồ pháo kích:
-2 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ tử trận
-5 Lực Lượng Đặc biệt Hoa kỳ bị thương
-25 Dân Sự Chiến Đấu bị thương
-7 Mike Force tử trận
-14 Mike Force bị thương
-1 thường dân bị chết
-1 thường dân bị thương
Khoảng 1 giờ chiều phi cơ vận tải C-47 bay đến căn cứ , bay theo hướng Tây Bắc xuống Đông Nam và bị trúng đạn phòng không, rơi xuống cách trại LLĐB 5 dặm về hướng Bắc. Trực thăng vào cứu được 3 phi đoàn và 3 người khác tử trận.
Đến 2:15 phút chiều , một phi cơ thả dù tiếp tế đạn dược, dụng cụ cứu thương rơi ra hàng rào, nhưng một đơn vị trong căn cứ ra ngoài đem về được. Đến 4:30, một phi cơ C-123 khác thả thêm mấy kiện hàng tiếp tế, đạn dược , quân trú phòng thâu được khoảng 50%. Đến 5 giờ chiều, phi cơ thả thêm một đợt tiếp cho căn cứ, cũng chỉ thu hồi một nửa. Và một phi cơ VH-1 bay vào căn cứ di tản thương binh, chiếc này bị trúng đạn không cất cánh lên được. Hoa Kỳ phải gửi lên căn cứ một trực thăng CH 53 di tản được 26 người bị thương trước khi trời tối. Tối đêm đó phi cơ bay bao vòng thả hoả châu chiếu sáng cả đêm.
Đúng 4 giờ sáng ngày 10 tháng 3, trại LLĐB A Shau lại nhận thêm một đợt pháo kích mới bằng súng cối 82 ly và đại bác không dật 57 ly bắn từ sườn núi vào trong căn cứ. Đợt pháo kích phá huỷ gần hết những gì trong căn cứ nên phải di tản lúc 5:30 chiều.
Vào lúc 5 giờ sáng CS BV mở trận tấn công lớn từ hướng Đông bên kia phi đạo và hướng Nam. hai tuyến phòng thủ này rất yếu vì có nhiều cỏ tranh rất cao. Đại Đội xung kích Mike Force phải chiến đấu tận lực, nhiều pha đánh cận chiến, cầm cự thêm 3 tiếng đồng hồ. Đến 8 giờ sáng, phòng tuyến phía nam xụp đổ , dân Sự Chiến Đấu Mike Force rút vào thủ quanh hầm chỉ huy nơi phòng tuyến phía Bắc.
Từ 6 giờ sáng, hai oanh tạc cơ B-57 với bom Cluster(CBV) đã trút nhiều tấn bom để làm giảm áp lực của CSBV. Chuẩn Tướng M.E.Cari, Tư Lệnh phó Không Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến tại Đà Nẳng, đã 2 lần bay đến AShau để thẩm định tình hình.
Đến 8:30 sáng , lực lượng trú phần chỉ còn giữ được một phần nơi phòng tuyến phía Bắc bao gồm hầm chỉ huy. Địch tấn công vào khu vực quanh hầm chỉ huy, nhưng các binh sĩ chống trả quyết liệt đẩy lui. Hai khẩu súng cối 81 và 60 ly vẫn còn tác xạ, nhưng bị đại bác 57 ly của địch bắn trúng hư hỏng lúc 12 giờ trưa.
Đến 9 giờ sáng, Không Quân Hoa Kỳ oanh kích dữ dội gây tổn thất nặng cho quân CSBV đã vào chiếm giao thông hào nơi phòng tuyến phía Nam. Các quân nhân Mike Force sống sót dưới quyền Đại Uý Lực Lượng Đặc Biệt Blair, cố gắng phản công lấy lại phòng tuyến phía Nam nhưng không thành công, phải lui về phòng thủ xung quanh hầm chỉ huy.
Đến 10 giờ sáng, chỉ huy toán A-102 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ trại A Shau, yêu cầu dội bom lên tất cả căn cứ trừ phòng tuyến phía Bắc và hầm chỉ huy. Nhờ quyết định táo bạo này, các phản lực cơ Hoa Kỳ đánh bom từ 10 giờ đến 12 giờ trưa, làm khựng lại tất cả các đợt tấn công của địch vào hầm chỉ huy.
Lúc 12:15, một phi cơ vận tải CV-2 thả xuống tiếp tế nước uống và đạn dược nhưng tất cả rơi vào tay địch quân. Cùng khoảng thời gian đó, một khu trực cơ A-1 Skyraider bị hoả lực phòng không bắn trúng, đáp khẩn cấp ngay trên phi đạo, và may mắn được một chiếc A-1 khác đáp xuống cứu bay thoát.
Từ 12:15 đến 2 giờ chiều quân CSBV vẫn không tiến được, mặc dầu hầm chỉ huy đã trúng nhiều đạn đại liên, nhưng hầm được xây cất kiên cố. Tuy nhiên quân CSBV vẫn tiếp tục dùng súng cối 82 ly bắn vào căn cứ.
Từ 2:30 đến 4:30 Lực lượng phòng thủ kiệt sức, tình trạng nguy ngập. tất cả vũ khí đã hết đạn hoặc hư hại. Các quân nhân DSCĐ Mike Fore đã phải chiến đấu hơn 36 tiếng đồng hồ, hết nước uống và thức ăn. Quân CSBV đã tràn vào chiếm những hầm hố giao thông hào tại những phòng tuyến đã chiếm được.
![]() |
Từ lúc 3 giờ chiều, trong bộ Tư Lênh Đệ Tam Thuỷ Bộ ( chỉ huy 2 Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến 1 và 3 Hoa Kỳ) đã có quyết định, xử dụng trực thăng của Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ di tản những quân nhân sống sót trại LLĐB A Shau. Cấp chỉ huy LLĐB Hoa Kỳ trong căn cứ được lệnh phá huỷ những ổ súng cộng đồng
(thực ra đã bị hư hại) để chuẩn bị di tản lúc 5 giờ chiều.
Đúng 5 giờ chiều, trong hầm chỉ huy căn cứ, các quân nhân LLĐB phá huỷ máy móc truyền tin, được Dân Sự Chiến Đấu nơi tuyến phòng thủ phía Bắc bắn yểm trợ cho họ rút lên hướng Bắc cùng với những quân nhân sống sót.
Đúng 5:20 , tất cả những quân nhân sống sót được lệnh rút lui đến một bãi đáp trực thăng. Tất cả nhừng người còn đứng vững phải ở lại nằm cản cho cuộc rút lui, và sẽ đi sau. Địch quân đã biết chuyện di tản nên pháo kích lên bãi đáp gây thêm tổn thất. Hợp đoàn trực thăng gồm có 15 chiếc trực thăng H- 34, được 4 trực thăng UH-1 võ trang hộ tống vào đón những quân nhân sống sót, và lẽ dĩ nhiên các phản lực vẫn bay bao vòng ở trên cao.
Đến 5:45 trực thăng không thể vào đón chuyến nữa vì hoả lực của phòng không của địch, vị chỉ huy trưởng bô chỉ huy C-1 LLĐB ngoài Đà Nẳng tuyên bố trại LLĐB A Shau đóng cửa.
Đến 6 giờ chiều, số quân nhân sống sót còn kẹt lại gồm có: 7 quân nhân mũ xanh LLĐB Hoa Kỳ, trong đó có một người bị thương nặng, 40 quân xung kích Mike Fore, 50 dân sự chiến đấu và phi hành đoàn 2 trực thăng TQLC Hoa Kỳ. Người lính LLĐB Hoa Kỳ bị thương đã chết gần bãi đáp trực thăng.
Toán này phài tự lực di tản, tránh né địch quân, di chuyển lên hướng Tây Bắc, thiết lập vị trí phòng thủ trên một khu đất cao cách trại LLĐB A Shau chừng 2 cây số.
Đến 2 giờ sáng, không thấy địch quân đuổi theo, họ tiếp tục lên hướng Bắc.Trong lúc di chuyển, một số quân nhân kiệt sức bị bỏ rơi, hoặc đi lạc vì trời tối.
Qua ngày 11-3, trực thăng cứu được 1 LLĐB Hoa Kỳ, và pho hành đoàn trực thăng TQLC Hoa Kỳ và một số quân Mike Fore. một số khác tiếp tục đi về hướng Bắc, được trực thăng tìm thấy, cứu được đưa về Huế ngày 11-3. Qua ngày 16-3-1966 cuộc tìm kiếm coi như chấm dứt.
Hai cửa ngõ chính đường mòn Hồ Chí Minh, thung lũng A Shau và chiến khu C được mở rộng.
Tướng William Westmoreland
Đa Thê
Mẹ lầm chọn phải tấm chồng
Ăn lường, chơi chạy bưởi bòng trăng hoa
Chọn lầm chồng của người ta
Bởi sông lạc hậu đẻ ra giống này !
Tin tức chiến sự đăng tải trên trang nhất kèm theo những hình ảnh chết thảm khốc, rồi trên radio, trên tivi chiếu tới tấp tin tức chiến trường nóng bỏng. Tôi đang may mà chợt lo cho Nhơn, không biết anh ra sao, bỗng con gái từ cầu thang nhô đầu lên gọi:
-Má ơi! Má ... có ai lên nhà mình kìa...
Nó vừa leo lên thì sau lưng nó là Tư Xê lù lù xuất hiện nơi thang gác, theo sau là hai người đàn bà, một người thì cái bụng bầu lum lúp làm tôi đâm nghi. Tôi nhìn họ dò xét, họ ngượng ngùng chào tôi. Chờ Tư Xê giới thiệu xem họ là ai, nhưng đứa em chồng bất lịch sự cứ ngóng ra thang gác coi bộ sốt ruột. Con gái chạy qua hàng xóm tìm hắn về. Hai anh em kéo ra ngoài lan can to nhỏ, trong này tôi hờ hững hỏi cho có chuyện. Mới biết hai chị em ở xóm Lăng, người chị tên Ai, thì ra là bạn học cũ, người em thì tên Đâu.
Chẳng lẽ gặp bạn cũ lại làm ngơ, bất đắc dĩ tôi phải mời dùng cơm, hắn đồng ý ngay mà còn thân mật còn là "chú thiếm" . Lúc ấy tôi mới biết Đâu đang mang bầu với Tư Xê, mà Hà thì đánh ghen rát quá nên Tư Xê mới đem bồ nhí lên nhà tôi lánh nạn.
Tôi không muốn chứa chấp loại đàn bà đi phá gia cang, cướp chồng của người, vã lại tôi biết Hà, và có cảm tình với người em bạn dâu, nhưng quyền quyết định không phải do tôi. Căn gác thì nhỏ đã chứa Liên với Thuý hai cô gái bán bar, giờ thêm ba mạng nữa, nên phải nằm dưới sàn gác xếp lớp như cá hộp.
Đa thê vốn bệnh đàn ôngChẳng lẽ gặp bạn cũ lại làm ngơ, bất đắc dĩ tôi phải mời dùng cơm, hắn đồng ý ngay mà còn thân mật còn là "chú thiếm" . Lúc ấy tôi mới biết Đâu đang mang bầu với Tư Xê, mà Hà thì đánh ghen rát quá nên Tư Xê mới đem bồ nhí lên nhà tôi lánh nạn.
Tôi không muốn chứa chấp loại đàn bà đi phá gia cang, cướp chồng của người, vã lại tôi biết Hà, và có cảm tình với người em bạn dâu, nhưng quyền quyết định không phải do tôi. Căn gác thì nhỏ đã chứa Liên với Thuý hai cô gái bán bar, giờ thêm ba mạng nữa, nên phải nằm dưới sàn gác xếp lớp như cá hộp.
Không nhiều thì ít có dòng máu dê
Xứ này chấp nhận đa thê
Mấy ông vốn thích đam mê "ăn chè"
Cảnh "đa thê "quá phiền toái, Đâu bị đánh ghen phải trốn chui trốn nhủi, mà các ông vẫn thích phưu lưu mạo hiểm tìm của lạ. Hà đánh ghen, chính là đã xô chồng về phía tình địch, cái tổ ấm gia đình bao năm xây dựng với bao công khó nhọc, gian nan, một phút bỗng tiêu tan ra mây khói. Con gà trống đã mê con gà mái khác, bỏ gà mẹ phải giang cánh ra mà bảo vệ, phải một mình bươi xới mà nuôi 4 gà con.
Tôi vốn không có thiện cảm với bên chồng, nhất là với Tư Xê, có lẽ do tôi thù ghét hắn rồi ghét lây cả gia đình hắn. Hay là tại anh em hắn với tôi có ân oán từ bao kiếp trước? Sự kính trọng trong tôi chẳng có, mà chỉ có sự "khinh bỉ". Đâu chỉ ở tạm một thời gian ngắn thì tình hình êm dịu thì Tư Xê lên rước về, chuẩn bị lót ổ cho bồ nhí.
Khi Tư Xê đưa Đâu về lại Bà Rịa, thì tôi với hắn cũng tháp tùng theo đem con về thăm ngoại. Vừa tới nhà ngồi chưa nóng ghế, thì hắn móc bóp trả lại tôi thẻ căn cước và tỏ vẻ săn sóc:
-Anh tính ở lại với em vài ngày, nhưng có chuyện phải về gấp! Lâu quá em không về thăm má! Thôi thì nhân dịp này em với con ở chơi vài bữa thủng thẳng rồi hãy lên!
Cầm cái thẻ căn cước, tôi nhìn hắn lòng bán tín bán nghi. Đã mấy tháng qua tôi bị giam lỏng, kể từ hôm Tư Xê lên hắn bỏ đi đêm, bỏ rượu, cứ quanh quẩn bên tôi lo tiếp khách. Chỉ một sớm, một chiều hắn bỗng thay đổi tánh tình, cử chỉ thì hoà nhã, lời nói ngọt ngào êm dịu, không còn gay gắt ghen tương như thường ngày. Thật là một "phép lạ",tôi mừng thầm nghĩ là hắn đã thay đổi, chứ không ngờ là hắn "đóng kịch". Kẻ vô tình còn người thì cố ý, thấy hắn không đón xe về Sàigòn mà thả bộ ra chợ.
Tôi quá mệt mỏi, cần xa chốn thành đô ít lâu, xa cái bến đời mà mình không lựa chọn. Tôi cần chút gió đồng nội để xua tan cái không khí ô nhiễm của thành đô, tôi cần cái không khí trong lành để buồng phổi được thở, lọc ra những độc hại. Tôi rất sợ cái "tổ ấm" mà má bắt tôi phải trở về, để rồi mới bước chân lên gác chưa kịp mở cửa. Thật là bẻ bàng, phủ phàng biết bao khi người hàng xóm khích bên vách thóc mách:
-Chị mới đi buổi sáng thì chiều anh Hội mang bồ về! Lại còn hầu hạ cô ta nửa chứ! Chả bù bắt chị hầu mà còn hành hạ đủ điều!
Tôi vịn lan can chới với:
-Chị có nhìn được mặt cô ta không?
Người hàng xóm nhìn tôi thương hại phân trần:
-Thì có ai lạ đâu! Chính cái cô mà hôm trước chị giới thiệu là bạn học ấy mà! Tôi tức dùm cho chị, bị chồng đối xử tệ bạc nên hỗng nói hỗng được!
Tôi biết hắn dan díu rất nhiều người, nhưng chẳng bao giờ nói vì khuất mắt, đằng này lại đem gái về nằm trên giường của mình, thì hỏi ai mà chẳng tức. Tôi không khóc, nhưng nỗi đau trong lòng không dấu được con gái, nó sa vào lòng tôi bá cổ an ủi:
-Má đừng nghĩ tới ba nữa! Có con thương má đủ rồi! Cậu Nhơn cũng thương má nữa! Cậu dặn con bảo vệ cho má ! Mà sao lâu quá câu không về thăm mình như lời cậu hứa?
Tôi vuốt tóc con mà nghẹn ngào, thầm nghĩ cậu sẽ không bao giờ về nữa, tôi chợt buồn vì mình đã dấu con. Tội nghiệp con tôi, mới bây lớn đã phải bận tâm chuyện cha mẹ bất hoà, chuyện cha lăng nhăng mèo mở, chuyện đau khổ của mẹ! Tôi đã hy sinh Tình Yêu của Nhơn để tròn bổn phận làm mẹ, cố sửa đổi như lời má dạy, thế mà "cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng". Nhìn bao gạo thơm má chắt chiu gửi cho chàng "rể quý" mà tim tôi chợt nhói đau. Bao nhiêu hạt gạo là bấy nhiêu mồ hôi của bà mẹ quê, có bao giờ hắn nghĩ đến công lao khó nhọc mà má phải dầm sương dang nắng?
Thấy thái độ hoà nhã của tôi, nên Ai không chối đã theo hắn lên ở mấy ngày trên nhà lúc tôi vắng mặt. Và Ai xin lỗi vì tại hắn quyến rũ. Nhìn tình địch tôi cảm thấy thương hại bạn, Tôi đến tìm Ai là vì tự ái bị tổn thương, chứ với hắn đâu đáng để tôi ghen, còn mắng chửi thô tục, hay đánh đập như những bà vợ ghen lồng lộng vô ý thức là điều tôi không thể làm được. Tôi chẳng buồn chào từ giã Ai, mà lẳng lặng dắt con ra cửa. Ai đứng lặng chết trân như Từ Hải trông theo...
Tôi quá mệt mỏi, cần xa chốn thành đô ít lâu, xa cái bến đời mà mình không lựa chọn. Tôi cần chút gió đồng nội để xua tan cái không khí ô nhiễm của thành đô, tôi cần cái không khí trong lành để buồng phổi được thở, lọc ra những độc hại. Tôi rất sợ cái "tổ ấm" mà má bắt tôi phải trở về, để rồi mới bước chân lên gác chưa kịp mở cửa. Thật là bẻ bàng, phủ phàng biết bao khi người hàng xóm khích bên vách thóc mách:
-Chị mới đi buổi sáng thì chiều anh Hội mang bồ về! Lại còn hầu hạ cô ta nửa chứ! Chả bù bắt chị hầu mà còn hành hạ đủ điều!
Tôi vịn lan can chới với:
-Chị có nhìn được mặt cô ta không?
Người hàng xóm nhìn tôi thương hại phân trần:
-Thì có ai lạ đâu! Chính cái cô mà hôm trước chị giới thiệu là bạn học ấy mà! Tôi tức dùm cho chị, bị chồng đối xử tệ bạc nên hỗng nói hỗng được!
Tôi biết hắn dan díu rất nhiều người, nhưng chẳng bao giờ nói vì khuất mắt, đằng này lại đem gái về nằm trên giường của mình, thì hỏi ai mà chẳng tức. Tôi không khóc, nhưng nỗi đau trong lòng không dấu được con gái, nó sa vào lòng tôi bá cổ an ủi:
-Má đừng nghĩ tới ba nữa! Có con thương má đủ rồi! Cậu Nhơn cũng thương má nữa! Cậu dặn con bảo vệ cho má ! Mà sao lâu quá câu không về thăm mình như lời cậu hứa?
Tôi vuốt tóc con mà nghẹn ngào, thầm nghĩ cậu sẽ không bao giờ về nữa, tôi chợt buồn vì mình đã dấu con. Tội nghiệp con tôi, mới bây lớn đã phải bận tâm chuyện cha mẹ bất hoà, chuyện cha lăng nhăng mèo mở, chuyện đau khổ của mẹ! Tôi đã hy sinh Tình Yêu của Nhơn để tròn bổn phận làm mẹ, cố sửa đổi như lời má dạy, thế mà "cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng". Nhìn bao gạo thơm má chắt chiu gửi cho chàng "rể quý" mà tim tôi chợt nhói đau. Bao nhiêu hạt gạo là bấy nhiêu mồ hôi của bà mẹ quê, có bao giờ hắn nghĩ đến công lao khó nhọc mà má phải dầm sương dang nắng?
Bụi đời bụi cám lẫn nhau
Nước sông, gạo chợ nghe đau trăm miền
Nàng hương đem bán chợ phiên
Nhốt đời bằng những bạc tiền người mua
Sống cùng nhưng ở chẳng cùng, sự ràng buộc là đứa con mà hắn phủ nhận. Tội không sao hiểu nỗi hắn , hắn sống buông thả thay đổi nhân tình như thay áo, còn tôi biến thành cái gai nhọn hồi nào chẳng biết. Nếu muốn sống tự do thì giữ tôi để làm gì? Sống với nhau bấy lâu tôi chẵng biết hắn muốn gì, không biết hắn thích gì. Chỉ biết hắn thích thức ăn ngoại, như súp và thịt bò khoai tây, không thích canh chua, cá kho tộ. Hắn không thích tôi mặc chiếc áo dài Việt Nam, mà thích tôi mặc những đồ đầm.
Không yêu hắn nên tôi chẳng ghen, chỉ tức vì bị xem thường, bị tổn thương và bị bạn lợi dụng. Tức vì hắn xem thường coi mình không ra gì, dám "công khai" đem gái về nhà, lại còn hầu hạ con bạn khốn nạn đó nữa chứ. Lửa giận trong lòng bốc cháy, cay cú tức như bị bò đá, giận hắn lừa dối thì ít, mà giận đứa phản bạn thì nhiều.
Sống cùng nhưng ở chẳng cùng
Làm sao hoà hợp sống chung một nhà
Lọc lừa, gian dối, điêu ngoa
Sống đời buông thả trẻ già không tha
Thì ra anh em họ giống y chang nhau, "già không bỏ, nhỏ không tha". Tôi hỏi thì hắn chối leo lẽo rồi còn thề:
-Anh thề! Nếu có thì trời đánh anh chết một cách thãm thiết đi!
- Anh quá khôn ngoan mà là cái khôn vặt không biết xấu hổ là gì! Chuyện trai gái, vợ lớn, vợ bé, gái điếm với anh chỉ là chuyện bình thường! Anh có tài nói dối mà không dám đối diện với sự thật!Chỉ là thằng điếm là tên du đảng hạng bét thôi!
Bị tôi mắng hắn phản công:
-Cô là gì của tôi mà dám hỗn xược! Cô không có quyền gì mà hạch xách tôi! khôn hồn thì câm cái miệng thúi của cô lại không thì nhừ đòn bây giờ! Toàn là thứ đàn bà phản bội!
Tôi biết, hắn chẳng bao giờ dám nhìn nhận chuyện tồi bại kia. Nên tôi quay về Bà Rịa ra xóm Lăng hỏi nhỏ Ai cho ra lẽ. Tôi rất bình tỉnh khi gặp Ai, tôi không hùng hổ như một người đi đánh ghen, mà tôi nhỏ nhẹ vì chỉ muốn biết sự việc có thật hay không? - Anh quá khôn ngoan mà là cái khôn vặt không biết xấu hổ là gì! Chuyện trai gái, vợ lớn, vợ bé, gái điếm với anh chỉ là chuyện bình thường! Anh có tài nói dối mà không dám đối diện với sự thật!Chỉ là thằng điếm là tên du đảng hạng bét thôi!
Bị tôi mắng hắn phản công:
-Cô là gì của tôi mà dám hỗn xược! Cô không có quyền gì mà hạch xách tôi! khôn hồn thì câm cái miệng thúi của cô lại không thì nhừ đòn bây giờ! Toàn là thứ đàn bà phản bội!
Tôi không là gì nhưng tôi là tất cả
Anh không là gì chỉ là kẻ hái hoa
Dù sợ roi đòn nhưng một lần tôi đã
Dám vì tình yêu nên lạc bước quên nhà !
Tôi không là gì nhưng tôi là tất cả
Anh không là gì chỉ là kẻ bất lương
Lường tình yêu, lường bạc tiền, lòng dối trá
Chẳng ngượng ngùng khi miệng nói tiếng yêu thương !
Thấy thái độ hoà nhã của tôi, nên Ai không chối đã theo hắn lên ở mấy ngày trên nhà lúc tôi vắng mặt. Và Ai xin lỗi vì tại hắn quyến rũ. Nhìn tình địch tôi cảm thấy thương hại bạn, Tôi đến tìm Ai là vì tự ái bị tổn thương, chứ với hắn đâu đáng để tôi ghen, còn mắng chửi thô tục, hay đánh đập như những bà vợ ghen lồng lộng vô ý thức là điều tôi không thể làm được. Tôi chẳng buồn chào từ giã Ai, mà lẳng lặng dắt con ra cửa. Ai đứng lặng chết trân như Từ Hải trông theo...
Lòng buồn trời cũng buồn lây
Chưa mưa mà lệ đã đầy trong tôi
Nợ duyên thôi đã lỡ rồi
Nén đau, nén hận! Mẹ ơi nát lòng!
Con đường về nhà má bỗng dài lê thê... tay dắt con mà lòng buồn hiu hắt, bước từng bước nặng nề chán nản. Nhìn trời chuyển mưa đen kịch mà lòng mình trận mưa rào đang trút xuống.
Má thấy tôi về Sàigòn mới hôm qua, hôm nay lại về nên chưng hửng. Tôi ngồi phịch xuống ghế vừa đau vừa hờn, cái uất ức làm tim tôi muốn ngưng đập. Tôi kể má nghe mình vừa khám phá " rể cưng" của má có bồ bịch lăng nhăng. Hai anh em lấy hai chị em. Má bênh vực:
-Bây nói ai? Chị em nào? Tin đồn tam sao thất bổn!
-Thì rể cưng của má chứa chấp vợ bé chú Tư Xê trong nhà! Rồi cuỗm luôn chị vợ Tư Xê! Con hỏi còn già mồm chối! Con mới ra hỏi nhỏ Ai thì nó nhận là có!
-Đờn ông hai, ba vợ là thường! Miễn nó thương bây là được rồi! Con gái dại cho nó lấy thì ráng chịu!
Tôi tròn mắt nhìn má mà nghẹn lời, vậy là người chấp nhận cho tôi sống kiếp "chồng chung". Dù hắn có hư đốn cách mấy vẫn được má bênh vực, còn hổ trợ khuyên khích. Trong khi ấy tôi vẫn bị má ghép vào cái tội "hư hỏng".
Tôi đau đớn uất ức:
-Tại sao con muốn có một người chồng đàng hoàng, đúng nghĩa thì má lại không chịu? Cứ bắt con phải "làm bé" cho thằng "bợm bải điếm thúi " đó?
-Thì cũng tại bây cắm sừng nó! Nó hỗng giết là may! Ráng mà "chuộc tội" Vợ chồng đóng cửa dạy nhau!
-Ai là vợ chồng? Con đâu có giấy tờ là vợ của ảnh đâu!
Má không muốn nghe tôi bày giải, quay lưng bỏ đi còn đuổi khéo:
-Bây dìa có xin phép nó hông đó? Thằng chồng thì hay ghen! Nó đánh thì đừng có khóc! Nó có bồ bịch đi ta bà rồi cũng dìa! Mất mát đâu mà sợ! Vô ăn cơm đi rồi hẵng dìa trển!
Tôi tức nghẹn, nhìn má như người xa lạ nào, chẳng bao giờ tôi hiểu nỗi má, lúc nào cũng xài cái luận điệu cũ rích đó. Thấy chẳng còn gì để nói, tôi hờn dỗi:
-Cũng được! Con về với "thằng điếm" đó cho vừa lòng má!
Con gái tôi lại càng không hiểu:
-Ba hư như vậy mà tại sao ngoại cứ bắt má ở với ba chi vậy?
Tôi quẹt nước mắt, không trả lời con. Nó làm sao biết được tôi đang chịu đựng sự khắc nghiệt của ngoại, chịu đựmg sự hành hạ từ tinh thần đến thể xác của cha nó. Tôi chẳng biết sức mình còn chịu đựng tới bao lâu nữa. Đứng lên toan dắt nó ra đón xe về Sàigòn, có lẽ do tinh thần suy sụp, phần nhịn đói nên tôi kiệt sức, cảm thấy chóng mặt mới nhờ Út cạo gió.
Một tay cầm tách nước, một tay cầm 2 viên thuốc cảm, nhìn ra lộ, chợt thấy mấy chiếc xe GMC chở đầy nhóc lính chạy qua, trên xe vài cánh tay thò ra vẫy, làm tôi bỗng nhớ đến Nhơn, nhớ buổi chia tay ngày ấy.
-Đờn ông hai, ba vợ là thường! Miễn nó thương bây là được rồi! Con gái dại cho nó lấy thì ráng chịu!
Tôi tròn mắt nhìn má mà nghẹn lời, vậy là người chấp nhận cho tôi sống kiếp "chồng chung". Dù hắn có hư đốn cách mấy vẫn được má bênh vực, còn hổ trợ khuyên khích. Trong khi ấy tôi vẫn bị má ghép vào cái tội "hư hỏng".
Tôi đau đớn uất ức:
-Tại sao con muốn có một người chồng đàng hoàng, đúng nghĩa thì má lại không chịu? Cứ bắt con phải "làm bé" cho thằng "bợm bải điếm thúi " đó?
-Thì cũng tại bây cắm sừng nó! Nó hỗng giết là may! Ráng mà "chuộc tội" Vợ chồng đóng cửa dạy nhau!
-Ai là vợ chồng? Con đâu có giấy tờ là vợ của ảnh đâu!
Má không muốn nghe tôi bày giải, quay lưng bỏ đi còn đuổi khéo:
-Bây dìa có xin phép nó hông đó? Thằng chồng thì hay ghen! Nó đánh thì đừng có khóc! Nó có bồ bịch đi ta bà rồi cũng dìa! Mất mát đâu mà sợ! Vô ăn cơm đi rồi hẵng dìa trển!
Tôi tức nghẹn, nhìn má như người xa lạ nào, chẳng bao giờ tôi hiểu nỗi má, lúc nào cũng xài cái luận điệu cũ rích đó. Thấy chẳng còn gì để nói, tôi hờn dỗi:
-Cũng được! Con về với "thằng điếm" đó cho vừa lòng má!
Con gái tôi lại càng không hiểu:
-Ba hư như vậy mà tại sao ngoại cứ bắt má ở với ba chi vậy?
Tôi quẹt nước mắt, không trả lời con. Nó làm sao biết được tôi đang chịu đựng sự khắc nghiệt của ngoại, chịu đựmg sự hành hạ từ tinh thần đến thể xác của cha nó. Tôi chẳng biết sức mình còn chịu đựng tới bao lâu nữa. Đứng lên toan dắt nó ra đón xe về Sàigòn, có lẽ do tinh thần suy sụp, phần nhịn đói nên tôi kiệt sức, cảm thấy chóng mặt mới nhờ Út cạo gió.
Một tay cầm tách nước, một tay cầm 2 viên thuốc cảm, nhìn ra lộ, chợt thấy mấy chiếc xe GMC chở đầy nhóc lính chạy qua, trên xe vài cánh tay thò ra vẫy, làm tôi bỗng nhớ đến Nhơn, nhớ buổi chia tay ngày ấy.
Người đi mãi như bóng chim tăm cá
Chiều lửa binh mình đã mất nhau rồi
Ta phương này lao ngục héo mòn hơi
Người phương ấy có nghe đời lạnh giá?
Bỗng trước mắt tôi tối sầm lại và tôi buông tách nước ngã cái rầm xuống nền gạch, thoáng bên tai tiếng khóc thét lên:
-Ngoại ơi !.... Ngoại má con xỉu rồi...
Khi tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên giường, nghe đau trên lưng, vì đang có người cắt gió. Không đầy 5 phút sau tôi tỉnh hẳn. Thấy phương pháp cắt gió có hiệu nghiệm nên hai chị tôi mới nhờ bà hàng xóm dạy cho.
Lần này tôi bỏ về hắn không đi tìm, tôi đau thình lình nên ở lại vài hôm dưỡng bệnh, mà má thì cứ hối thúc tôi về lại Sàigòn. Tôi vâng lời người mà lòng hờn má đầy ấp như biển khơi.
Hờn này mẹ biết cho chăng
Cõi riêng tâm mạch đã hằn vết đau
Mẹ ơi! Chẳng hiểu vì sao
Bắt con phải bước chân vào chông gai
Con hẻm hôm nay bỗng dài hun hút... tôi chán nản, lê từng bước chân mệt mỏi nặng nề lên thang gác. Cái thang quá cũ kỷ, gỗ ọp ẹp bắt đầu lung lay như cái răng sắp rụng, mỗi bước chân nghe vang lên như tiếng rên than trong lòng tôi.
Ta mệt mỏi trên lối về gác trọ
Nắng ơ hờ qua dãy phố dọc ngang
Hẻm lầy lội sau những lần mưa gió
Ta gục đầu nghe chết giữa lầm than !
Mở cửa bước vào, tôi khựng lại... đưa tay dụi mắt mà không tin là sự thật. Bàn ghế trống trơn, cả cái máy may không cánh cũng biến mất, chỉ còn độc nhất cái giường. Tôi choáng voáng ngồi bệt xuống sàn gác chết điếng ứa nước mắt, chỉ biết gục đầu rên rỉ:
Ta về đây sao chán chường tuyệt vọng
Chút hương thừa người lạ quẩn quanh đây
Trong tủi nhục oán hờn ta vẫn sống
Với kẻ thù dù trăm đắng ngàn cay !
Con gái tôi ngơ ngác nhìn quanh, rồi nhìn tôi không dám hỏi. Sự vắng lạnh của căn gác làm lòng tôi thêm âm u. Căn gác ngày nào tôi bỏ công, bỏ tiền ra sắm sửa, dù không đầy đủ lắm nhưng cũng ấm cúng ngăn nấp và sạch sẻ. Hôm nay bỗng nhiên hoang vắng lạ thường. nhìn cái giường mà cảm thấy nhờn gớm, hơi hướng của người lạ như còn thừa thải quanh đây. Ánh nắng cuối ngày đang thoi thóp bên kia dãy phố, nắng vàng ẻo, bệnh hoạn giống như tôi. Tôi đã cùng đường chẳng biết xoay trở vào đâu, tình cảnh khốn nạn này má có thấu hiểu cho chăng?
Nỗi đau nào đến tận cùng
Con đường trước mặt mịt mùng tương lai
Ngày mai ai biết ngày mai
Tương lai mù mịt đắng cay buốt lòng
Còn gì hạnh phúc mà mong
Ta giam thù hận chìm trong oán hờn !
Trong ánh mắt tinh anh xinh đẹp của con long lanh giọt lệ sắp tràn, mà ác nghiệt thay nó lại giống cái người mà tôi ghét cay ghét đắng. Nó nhìn tôi như đọc thủng cái ý nghĩ trong đầu tôi:
-Chắc má ghét ba lắm phải không? Con giống ba, má có ghét con không? Hay là tại con?
Câu hỏi của con làm tôi đau lòng, nói ghét thì còn thiếu, bởi tôi đang đắm chìm trong "thù hận"mà không muốn con nhìn thấy sự "hận thù" đang bùng cháy ngùn ngụt trong tôi. Nó đã hiểu thân phận của một đứa trẻ không được cha thừa nhận, nó là cái bia mỗi khi hắn tức giận, lời mắng chửi của hắn như mũi tên tẩm thuốc độc, như viện đạn cứ ghim sâu vào trí óc non nớt của con, lâu ngày thành vết thương nhiễm độc loang lỡ dần theo thời gian. Như gà mẹ, tôi phải luôn luôn bảo vệ cho gà con bởi con diều hâu quái ác kia.
Thương con hận tủi trào dâng
Đau thương cũng chỉ đến ngần này thôi
Trăm năm hai chữ lỡ rồi
Buồn hiu trang giấy ngậm ngùi từng câu
Trăm năm hai chữ lỡ rồi
Buồn hiu trang giấy ngậm ngùi từng câu
Tôi quá mệt mỏi, mà sức chịu đựng chỉ có hạn đến mức nào thôi. Tôi sợ có ngày "tức nước vỡ bờ" . Tôi ôm chặt con vào lòng, nén cái đau thương sầu lắng, nén cái uất ức làm tim tôi nhói đau. Nhìn căn gác trống rỗng buồn hiu hắt nghĩ đến ngày mai, rồi tuần tới, tháng sau...
Bước lên gác, vừa đụng mặt tôi hắn liền khai chiến:
-Cô đi đâu mấy hôm nay? Mới thả lỏng thì đã trốn đi tìm tình nhân phải không? Toàn là thứ đàn bà phản bội! Bộ thằng này dễ cắm sừng lắm sao!
Nhìn cử chỉ hung hản của hắn, con sợ hãi ôm cứng lấy tôi, không thể nhịn được nữa tôi phản công:
-Anh đừng hòng đánh phủ đầu tôi! Đi về Bà Rịa tìm đứa bạn khốn nạn đó chớ đi đâu! Con Ai nó nhận tội rồi đó cho lòi cái bản mặt gian xảo điếm thúi của anh ra! Tôi đoán chắc mẻm có sai đâu!
Hắn làm thinh không trả lời, trả vốn, cúi gầm mặt dấu vẻ bối rối vì bị tôi nói trúng tim đen, thái độ im lặng đó đã gián tiếp nhận tội. Tôi thở ra cho cơn giận bớt xuống, tim chợt nhói đau nên một tay chận lên ngực gằn từng tiếng:
-Đồ đạc trong nhà với cái máy may anh đem đi đâu?
Hắn trả lời cộc lốc:
-Tôi tưởng cô bỏ đi luôn nên đem bán hết rồi!
Cơn giận làm tôi muôn điên lên, đau đến lặng người tôi uất ức than:
-Gia tài của má cho làm vốn! Anh nỡ nhẫn tâm nuốt mà hỗng nghẹn! Anh đưa tiền lại đây tôi mua cái khác!
Hắn trân tráo tàn nhẫn nói ngang:
-Lỡ nhậu hết rồi về xin má mua cái khác!
Tôi nhịn hết nỗi hét lên kể lể:
-Dẹp! Tôi không đi đâu hết! Bộ khùng hay sao mà đi xin tiền nuôi thứ bất lương! Tiền tử của anh tôi anh cũng nuốt! Giờ còn đem đổ cả nồi cơm tôi nữa! Trời đất ngó xuống mà coi!
-Hỗng đi thì thôi! Đùng có hỗn láo kể lể! Thằng này thiếu gì chổ chứa! Tôi đâu có đói mà sợ!
-Thằng lùn mã tử ích kỷ! Nếu như anh đã có nơi có chổ anh còn giữ tôi để làm gì?
Hắn không trả lời câu hỏi của tôi, mà lãng qua chuyện khác, mắt đỏ ngầu giận dữ rít lên:
-Tại sao với người khác thì cô mềm mỏng thiết tha! Còn với tôi cô khinh dễ đối đải chẳng ra gì?
-Vì người khác họ tôn trọng tôi! Còn anh đáng kính trọng hay đáng khinh bỉ thì anh tự hiểu lấy! Vì tôi chán bị lừa dối! Tôi không hối hận việc tôi làm! Tôi đâu có chối chuyện tôi theo trai! Chính anh ép buột bắt tôi về! Tôi đâu có cầu xin anh và tôi cũng không yêu thương chi anh! Tôi cũng không phải là vợ của anh!
Hắn cứng họng nín thinh. Tôi mím môi nén cơn giận đang sôi sục trong lòng, không khóc được nữa. Tôi lặng người ôm con mà tức, nó áp mặt vào má tôi thủ thỉ:
-Má đừng buồn, đừng khóc! Thôi mình về ngoại đi má!
Nó vừa dứt lời, hắn nỗi sùng chửi:
-Hở một chút là về ngoại! ĐM! thứ con gái nuôi cho uổng cơm! Mẹ con cũng giống một thứ...
Hắn bỏ lửng câu nói hậm hực bước xuống thang gác. Tôi thấy hắn mang căn bệnh trầm kha hết thuốc chữa, còn mình như cội cây sắp ngã vì thiếu nước, mà còn bị dây oan nghiệt rối rắm chằng chịt không gỡ ra được. Nó vùi vào ngực tôi thút thít khóc, vuốt tóc con mà tim tôi buốt đau, nó đã làm gì nên tội mà bị hắn nguyền rủa không tiếc lời, trừng phạt cái tội mà nó chưa hề phạm phải.
Trong quân sử Úc Đại Lợi, chiến thắng Long Tân được xếp àng ngang với chiến thắng lẫy lừng của Anincourt của quân lực hoàng gia Anh.
108 quân nhân Úc đã phải chiến đấu và đánh bại lực lượng VC lên tới 1.500 tên. Lực lượng Úc đã hạ sát 245 VC đếm xác tại chổ, một số khác bị hạ sát hoặc mang đi. Theo tra vấn của các tù binh VC thì lực lượng tham chiến này là của MTGPMN là trung đoàn 275 với gần 2.500 binh lính VC.
Cuộc đụng độ xảy ra vào 2 ngày 18 và 19 tháng 8 năm 1966. tại môt khu rừng cao su gần xã Long Tân phía Nam Vũng Tàu.
Lúc 10 giờ sáng ngày 18 tháng 8 năm 1966, Một Đại đội Úc được gửi tới một khu vực được biết là có 1 Tiểu đoàn VC, lực lượng này có thể lên tới đến 3 Tiểu đoàn.
Hôm đó tại núi Đất là một ngày trời nóng bức. Tại căn cứ lực lượng Đặc Nhiệm Úc, ban nhạc Col Joyes và các Joyeboys đang chuẩn bị cho buổi trình diễn giúp vui cho các quân nhân Úc, buổi trình diễn mà 108 quân nhân của Đại đội D bị lỡ cơ hội.
Theo hướng Đông, các quân nhân Úc tiến về một đồn điền cũ của người Pháp ở Long Tân, băng mình giữa những bụi rậm dầy đặc, vượt qua suối Đa Bang tới một đồn điền bát ngát.
Tới nơi, Đại đội chia thành 3 Trung đội, đi xuyên qua đồn điền bằng 3 ngã khác nhau. Vào lúc 3:40 phút Trung Đội 11 chạm địch.
Trung đội 11 do Thiếu Uý Gardon Sharp chỉ huy. Một toán VC có 6 tên đang ngồi ăn cơm quanh đống lửa. Các quân nhân Úc khai hoả, gây thương tích cho 2 tên và tất cả chạy thoát vào rừng.
Các quân nhân Úc tiếp tục tiến và ngay sau 4 giờ, trời bắt đầu mưa rồi đột nhiên cơn mưa đất trời biến thành cơn mưa đạn. 6 tên VC vừa nói là một thành phần của bộ đội miền Bắc, và bọn chúng khởi sự tấn công vào Trung đội 11 của Úc.
Trong khi các quân nhân Úc nằm rạp xuống hoặc nhảy xuống những cái hố, tay súng liên thanh bị bắn gục, và mấy giây sau người thay thế cũng bị hạ. Từ bên cánh trái Trung đội, Jimmy và các quân nhân khác ria mấy loạt lên cây bắn rớt những tay súng bắn sẻ của địch, nhưng cùng lúc, họ thấy nhiều địch quân đang bò tới.
Trước hoả lực dữ dội của địch, các quân nhân Úc bị đè cứng tại chỗ và chẳng bao lâu thêm một số bị chết và bị thương. Họ không còn đường để thoát, nhưng họ vẫn không lùi bước. Đó là lúc Jimmy, sau khi rút chốt trái lưu đạn, bị trúng mãnh đạn ghim vào lưng, khiến anh kinh hoàng khi nhận thấy mình vẫn nắm trái lưu đạn đã rút chốt trong tay, nhưng khồng còn sức để ném. Dù sao anh cũng còn tỉnh táo, đủ để giúp anh lấy sợi dây thun dưới chân cột quanh trái lưu đạn trước khi bất tỉnh.
Chung quanh Jimmy đạn vẫn nổ như pháo rang, màn mưa bừng sáng với những quả khói mầu lam làm hiệu và những ánh lửa xanh của những viên đạn đại bác đang bay tới, và lực lượng VC tiếp tục tiến. Trong khi đó Trung đội 12 cũng trở thành mục tiêu của từng loạt đại pháo của địch khiến họ nằm yên.
Trung đội 10, không thấy đường dưới màn mưa dầy đặc, chỉ nhắm theo hướng tiếng súng mà tiến tới. Sau một lúc đi "mò" họ tới một vị trí cao và đột nhiên thấy địch quân nằm bên dưới . các quân nhân Úc lập tức nổ súng gây thiệt hại nặng nề cho địch quân, trước khi trở thành mục tiêu cơn mưa đạn.
Trong cơn mưa tầm tả, Đại Tá Harry Smith kêu gọi Pháo binh yểm trợ và trực thăng tiếp tế đạn dược.
Trung đoàn 275 của VC khi bao vây Đại đội D cũng bị thiệt hại nặng khi tung ra các đợt xung phong vào vị trí cố thủ của Đại đội D. Các đợt xung phong biển người của địch quân đều bị hàng rào cản Pháo binh yễm trợ tiếp cận chận đứng. Một số cán binh vượt qua khỏi bức tường lửa đều bị bắn hạ.
Trung đoàn VC trừ bị 274 phía sau bị khu trục oanh kích cũng bị thiệt hại không ít.
Trong khi đó, các quân nhân sống sót của trung đội 11 vừa đi vừa chạy, vừa lết vừa bò khi về đến vị trí của trung đội 12. Họ nghĩ rằng tất cả đồng đội của họ đã thiệt mạng, mà không biết rằng Jimmy chỉ bị thương, vẫn còn sống và đang nằm dưới bùn lầy, giữa các tử thi đồng ngủ. Trời mỗi lúc một tối.
Bây giờ tất cả quân nhân còn sống sót của Đại đội D đều tập trung tại một vị trí. Họ quyết định lập hàng rào phòng thủ ngăn chận quân thù. Thực ra họ không có sự lựa chọn nào khác, vì chỉ cách họ 300 thước, họ thấy rõ địch đang dàn quân, chuẩn bị cho đợt tấn công. Thoạt tiên, 1 hàng ngang chừng vài trăm tay súng VC chầm chậm tiến tới.
Lúc khoảng 100 thước , rồi 1 hàng rào ngang thứ nhì thành hình ở phía sau. Các quân nhân Úc biết rằng giờ quyết định đã tới. Họ phải vững tay súng ngăn chận tất cả đợt tấn công biển người của địch. Nếu không, họ sẽ bị tràn ngập và sẽ không còn người nào sống sót. Những chàng trai Úc yên lặng đợi chờ, nhiều người thầm cầu nguyện, , những người khác nghĩ tới những người thân.
Khi địch quân chỉ còn cách họ 50 thước, các quân úc đồng loạt khai hoả với một kết quả vô cùng tốt đẹp. Hàng loạt các tay súng VC bị bắn ngã, hàng ngang bị chận đứng và dội lại. Tuy nhiên bọn VC lì lợm và ngoan cố lập tức chỉnh đốn hàng ngủ, thành lập 1 hàng ngang thứ nhì, khi đoàn người này bị bắn ngã với những xác chết chồng chất, 1 hàng ngang thứ ba được thành lập và các tay súng VC tiếp tục tiến tới dưới những làn mưa đạn của các quân nhân Úc.
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 ra lệnh cho Đại đội B vừa mới trở về căn cứ Núi Đất phải trở lại ngay tăng viện cho Đại đội D và đồng thời chính Tiểu đoàn trưởng chỉ huy Đại đội A và chi đội Thiết vận xa đánh bọc lên ngay cạnh sườn địch giải vây cho Đại đội D.
Hết hàng này đến hàng khác, địch quân tiến tới không ngừng và đống xác người mỗi lúc mỗi cao.
Trước những đợt tấn công liên tục và kiên trì của địch, hầu hết các quân nhân thuộc Đại đội D nghĩ rằng họ chỉ sống sót trong một thời gian rất ngắn.
Tiểu đoàn D 445 bị đánh bất ngờ từ phía sau bị thiệt hại nặng, vòng vây bị chọc thủng và lực lượng Thiết vận bắt tay với Đại đội D.
Toàn quân của VC, Tiểu đoàn D 445 chạy về hướng Đông bị Đại đội B vừa tiến đến truy kích và bị bắn hạ gần hết.
Nhưng rồi họ nghe thấy những âm thanh cứu tử. Tiếng ì ì của Thiết vận xa của Úc đã vượt qua sông, chạy xuyên qua một lực lượng đông đảo của địch, vừa bắn vừa tiến tới vị trí của Đại đội D. Khi các Thiết vận xa của Úc tới gần, hàng ngang của VC bị đạn tơi bời khiến chúng từ từ tan rã trước khi tháo chạy.
Trong khi đó từ vị trí cố thủ của Đại đội D, các quân nhân Úc vừa vẫy tay vừa la hét, vừa khóc vừa cười. Cũng như các quân nhân Anh tại Agincourt, họ vừa kinh ngạc, vừa thích thú, không biết rằng những gì đang diễn ra có phải là sự thật hay không, không biết rằng họ đã thật sự đẩy lui quân địch, đã thật sự chiến thắng hay không.
Đêm hôm đó trời tạnh mưa. sáng hôm sau bầu trời quang đảng, các quân nhân Úc trở lại chiến trường tìm xác đồng đội, và giữa các tử thi, họ tìm thấy Jimmy Richmond vẫn còn sống.
Bị mất nhiều máu, không cử động được, và với trái lưu đạn rút chốt bên mình. Jimmy đã nằm đó trong những phút giây đợi chờ dài đằng đẳng, đợi một trái lưu đạn rớt xuống, đợi một nhát dao, một lưỡi lê, một viên đạn của địch. Và Jimmy tự hỏi không biết mẹ anh ra sao nếu anh không bao giờ trở lại. Nhưng Jimmy đã trở về, và mẹ anh đã ôm con trong nước mắt. Jimmy sống sót nhờ may mắn, nhờ các bạn đồng đột can trường và nhờ 1 sợi dây thun.
Sau đó một cuộc hành quân qui mô gồm Lữ đoàn 173 Nhẩy Dù Hoa Kỳ, một Tiểu đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ cùng với một số Tiểu đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà và Tiểu đoàn 5 Hoàng gia Úc, cuộc hành quân mang tên là Toledo.
Tuy chiến thắng tại Long Tân(núi Đất- tỉnh Bà Rịa) là một chiến thắng lẫy lừng, nhưng quân đội của Úc cũng tổn thất.
-18 binh lính tuổi từ 19 đến 22 tử trận
-26 binh sĩ bị thương
Trong cuộc hành quân này Pháo binh và tác xạ tất cả là 2.639 đạn 105 ly cùng với 155 ly yễm trợ cho Đại đội D.
CS BV bỏ lại 245 xác chết cùng với:
-2 Đại bác 57 không giật
- 4 súng chống chiến xa B-40
-1 Thượng liên12.7
-7 Trung liên RBD
-1 Trung liên BAR
-33 Tiểu liên AK 47
-1 Tiểu liên PPSh
-1 Tiểu liên Thompson
-2 Carbine M1 - súng trường SKS
-1 Garant M1
Nạn nhân chiến cuộc gia tăng kể từ tháng 12-1966, riêng chỉ Bình Định đã có đến 85 trại định cư với 129.202 người. Trong năm 1966, cuộc hành quân Attleboro lớn nhất, về phía Tây đồn điền Michelin ngày 14-9-1966, sau đó là Dầu Tiếng (Tây Ninh). Trung tá W.CBarott, Tiểu đoàn trưởng 2/27 bị tử thương khi đến tăng viện. Chuẩn Tướng E.H.De Sausure được thay thế bởi Chuẩn Tướng W.E. Depuy, Tư Lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh.
Năm 1967 (Đinh Mùi), để yễm trợ cho các nổ lực càn quét tại miền Nam, các cuộc oanh tạc miền Bắc gia tăng. Ngày 24-1-1967, Tổng Thống Jonhson cho phép phi cơ Mỹ đánh phá 16 mục tiêu mà trước đây bị giới hạn chung quanh Hà Nội. Đến ngày 27-2-1967 Hải Quân Hoa Kỳ đã được lệnh dùng thuỷ lôi phong toả các hải lộ dưới vĩ tuyến 20. (trích bài viết Nguyễn Đình Khánh).
-Cô đi đâu mấy hôm nay? Mới thả lỏng thì đã trốn đi tìm tình nhân phải không? Toàn là thứ đàn bà phản bội! Bộ thằng này dễ cắm sừng lắm sao!
Nhìn cử chỉ hung hản của hắn, con sợ hãi ôm cứng lấy tôi, không thể nhịn được nữa tôi phản công:
-Anh đừng hòng đánh phủ đầu tôi! Đi về Bà Rịa tìm đứa bạn khốn nạn đó chớ đi đâu! Con Ai nó nhận tội rồi đó cho lòi cái bản mặt gian xảo điếm thúi của anh ra! Tôi đoán chắc mẻm có sai đâu!
Hắn làm thinh không trả lời, trả vốn, cúi gầm mặt dấu vẻ bối rối vì bị tôi nói trúng tim đen, thái độ im lặng đó đã gián tiếp nhận tội. Tôi thở ra cho cơn giận bớt xuống, tim chợt nhói đau nên một tay chận lên ngực gằn từng tiếng:
-Đồ đạc trong nhà với cái máy may anh đem đi đâu?
Hắn trả lời cộc lốc:
-Tôi tưởng cô bỏ đi luôn nên đem bán hết rồi!
Cơn giận làm tôi muôn điên lên, đau đến lặng người tôi uất ức than:
-Gia tài của má cho làm vốn! Anh nỡ nhẫn tâm nuốt mà hỗng nghẹn! Anh đưa tiền lại đây tôi mua cái khác!
Hắn trân tráo tàn nhẫn nói ngang:
-Lỡ nhậu hết rồi về xin má mua cái khác!
Tôi nhịn hết nỗi hét lên kể lể:
-Dẹp! Tôi không đi đâu hết! Bộ khùng hay sao mà đi xin tiền nuôi thứ bất lương! Tiền tử của anh tôi anh cũng nuốt! Giờ còn đem đổ cả nồi cơm tôi nữa! Trời đất ngó xuống mà coi!
-Hỗng đi thì thôi! Đùng có hỗn láo kể lể! Thằng này thiếu gì chổ chứa! Tôi đâu có đói mà sợ!
-Thằng lùn mã tử ích kỷ! Nếu như anh đã có nơi có chổ anh còn giữ tôi để làm gì?
Hắn không trả lời câu hỏi của tôi, mà lãng qua chuyện khác, mắt đỏ ngầu giận dữ rít lên:
-Tại sao với người khác thì cô mềm mỏng thiết tha! Còn với tôi cô khinh dễ đối đải chẳng ra gì?
-Vì người khác họ tôn trọng tôi! Còn anh đáng kính trọng hay đáng khinh bỉ thì anh tự hiểu lấy! Vì tôi chán bị lừa dối! Tôi không hối hận việc tôi làm! Tôi đâu có chối chuyện tôi theo trai! Chính anh ép buột bắt tôi về! Tôi đâu có cầu xin anh và tôi cũng không yêu thương chi anh! Tôi cũng không phải là vợ của anh!
Hắn cứng họng nín thinh. Tôi mím môi nén cơn giận đang sôi sục trong lòng, không khóc được nữa. Tôi lặng người ôm con mà tức, nó áp mặt vào má tôi thủ thỉ:
-Má đừng buồn, đừng khóc! Thôi mình về ngoại đi má!
Nó vừa dứt lời, hắn nỗi sùng chửi:
-Hở một chút là về ngoại! ĐM! thứ con gái nuôi cho uổng cơm! Mẹ con cũng giống một thứ...
Hắn bỏ lửng câu nói hậm hực bước xuống thang gác. Tôi thấy hắn mang căn bệnh trầm kha hết thuốc chữa, còn mình như cội cây sắp ngã vì thiếu nước, mà còn bị dây oan nghiệt rối rắm chằng chịt không gỡ ra được. Nó vùi vào ngực tôi thút thít khóc, vuốt tóc con mà tim tôi buốt đau, nó đã làm gì nên tội mà bị hắn nguyền rủa không tiếc lời, trừng phạt cái tội mà nó chưa hề phạm phải.
Lá khô từng lớp đau vùi
Để dây oan mọc rối nùi rừng mơ
Đời buồn từ thuở bé thơ
Như bầy chim nhỏ bơ vơ lạc loài
Tôi tự trách mình đã không đem được niềm vui hạnh phúc đến cho con. Chọn lối nào rồi cũng lỡ, con đường cùng sẽ đưa tôi về đâu? Làm sao tìm cho mình một cõi bình yên, tìm cho con một tình thương cha mà con thiếu thốn!
Soi gương nhìn bóng ngỡ ngàng
Nét xưa đã mất võ vàng đời em
Đôi tay giờ cũng năm im
Hoa môi lơ đãng vì tim vỡ rồi!
Nhìn vào gương tôi thấy mình bệ rạc thấy rõ vì ăn uống thất thường, bởi cảnh "cơm đợi canh chờ' mà nguyên nhân là cái tâm bệnh. Cái gương đời đã rạn nứt, trong gương phản chiếu cái bóng nhăn nhúm của tôi trông thãm não, cô đơn!!!...
Trong gác vắng nghe đêm buồn trăn trở
Bóng chập chờn hiu hắt ngả vào nhau
Ta chuyển hướng nhưng lối nào cũng lỡ
Con đường cùng sẽ dẫn đến nơi nao?
Hắn thay đổi nhân tình như thay áo, hết tiền thì hết tình! Cứ đêm về hắn như con thiêu thân lao vào ánh sáng. Con hẻm cúp điện tối đen, trong căn gác trống trơn ngọn đèn cây không đủ sáng, chập chờn 2 bóng mẹ con như bóng Hòn Vọng phu hiu hắt ngả vào nhau trên vách. Lòng thương con dạt dào mà ưu tư lo âu cho cuộc sống bấp bênh...
Khóc thầm phận bạc đong đưa
Chín lầm mười lỡ lọc lừa dối gian
Chiều đi theo giọt lệ tràn
Mây hờn gió tửi hỡi chàng có hay!
Tôi phải chịu đựng cảnh đày đoạ bạo động, mắng chửi để chuộc cái tội dám phản bội hắn. Mỗi lần đau khổ tận cùng như thế này tôi lại nhớ đến Nhơn. Anh giờ ra sao? Có nhớ đến con người bội bạc này không? Có biết rằng em rất cô đơn, rất cần vòng tay ấm áp của anh! Yêu anh thật nhiều nhưng không thể đi tìm anh. Bởi hối hận, bởi lầm lỡ nên em không bao giờ dám quay về lối cũ, mà cũng không có chốn để quay về , đoạn đường chông gai này dài thăm thẳm, chỉ mình em bước đi một mình, và em tự hỏi, nơi cuối con đường đó biết ta có còn gặp lại nhau chăng?
Ta sống trong gian khổ
Mới thương kẻ đoạn trường
Một lần tình bỗng lỡ
Mới biết thú đau thương!
Nằm nghe tiếng mưa rơi lộp độp trên mái tôn, như khúc nhạc không lời buồn phủ kín đời tôi. Nước lé đé dâng lên gần tới thang gác, nước đục ngầu nhơ nhớp sau những cơn mưa, cũng như đời tôi đã nhơ nhớp từ thưở mới bước vào đời. Tôi biết trách ai đây? Hay chỉ tự trách mình? Đổ tội cho ai đây? Hay chỉ đổ tội cho "Định Mệnh".
Bên thềm tí tách mưa đêm
Giọt sầu, giọt tủi vào tim rã rời
Lỡ tay nhặt trái sầu đời
Chao ôi! Trái đắng hơn lời dối gian!
Tôi đang trả cái giá "quá đắc" cho cái tội dám sống cho mình. Đã qua mấy trận thua đậm đến te tua chưa gượng dậy nỗi. Trên con đường đời biết bao nhiêu là cạm bẫy giăng sẵn chờ con mồi, tôi đã sa vào bẫy, mà gã thợ săn man rợ hành hạ đủ điều từ thể xác đến tinh thần mà chưa thoả cái thú tính. Những trận đòn không chuyễn nỗi lòng tôi.
Mưa tạt vào vách, gió lùa qua các khe hở làm tôi cảm thấy lạnh. Kéo mền đấp thêm cho con, nó mỉm cười trong giấc ngủ thật xinh và vô tư, làm tôi nhớ lại lời kể của anh Tư Kia và của Nhơn hôm nào "con là đứa trẻ thiếu tình thương". Mỗi lần nhớ lại câu nói đó, nó như có sức mạnh vô hình, đã ngăn cản bước chân tôi đi tìm Nhơn. Để rồi bây giờ sống dở, chết dở, nỗi khổ này không biết than thở cùng ai.
Nỗi lòng biết tỏ cùng ai
Nỗi sấu lấp kín từ ngày chia xa
Nỗi buồn giết chết đời ta
Nỗi đau câm lặng nhạt nhoà kiếp mai...
Câu nói như tiếng chim kêu thương thống thiết kia, cứ hằng đêm vọng về trong giấc ngủ mệt mỏi của tôi, khi tỉnh giấc càng làm nhói đau lòng mẹ. Chính câu nói của con đã cho tôi một sự lựa chọn là hy sinh mối tình chân thật cuối đời. Tôi thở dài trong đêm tàn đơn lạnh, trong khổ nhục rã rời, trong nỗi hờn đau chất ngất. Ngoài kia mưa nghẹn ngào bất chợt qua hẻm vắng buồn tênh...
Trong quân sử Úc Đại Lợi, chiến thắng Long Tân được xếp àng ngang với chiến thắng lẫy lừng của Anincourt của quân lực hoàng gia Anh.
108 quân nhân Úc đã phải chiến đấu và đánh bại lực lượng VC lên tới 1.500 tên. Lực lượng Úc đã hạ sát 245 VC đếm xác tại chổ, một số khác bị hạ sát hoặc mang đi. Theo tra vấn của các tù binh VC thì lực lượng tham chiến này là của MTGPMN là trung đoàn 275 với gần 2.500 binh lính VC.
Cuộc đụng độ xảy ra vào 2 ngày 18 và 19 tháng 8 năm 1966. tại môt khu rừng cao su gần xã Long Tân phía Nam Vũng Tàu.
Lúc 10 giờ sáng ngày 18 tháng 8 năm 1966, Một Đại đội Úc được gửi tới một khu vực được biết là có 1 Tiểu đoàn VC, lực lượng này có thể lên tới đến 3 Tiểu đoàn.
Hôm đó tại núi Đất là một ngày trời nóng bức. Tại căn cứ lực lượng Đặc Nhiệm Úc, ban nhạc Col Joyes và các Joyeboys đang chuẩn bị cho buổi trình diễn giúp vui cho các quân nhân Úc, buổi trình diễn mà 108 quân nhân của Đại đội D bị lỡ cơ hội.
Theo hướng Đông, các quân nhân Úc tiến về một đồn điền cũ của người Pháp ở Long Tân, băng mình giữa những bụi rậm dầy đặc, vượt qua suối Đa Bang tới một đồn điền bát ngát.
Tới nơi, Đại đội chia thành 3 Trung đội, đi xuyên qua đồn điền bằng 3 ngã khác nhau. Vào lúc 3:40 phút Trung Đội 11 chạm địch.
Trung đội 11 do Thiếu Uý Gardon Sharp chỉ huy. Một toán VC có 6 tên đang ngồi ăn cơm quanh đống lửa. Các quân nhân Úc khai hoả, gây thương tích cho 2 tên và tất cả chạy thoát vào rừng.
Các quân nhân Úc tiếp tục tiến và ngay sau 4 giờ, trời bắt đầu mưa rồi đột nhiên cơn mưa đất trời biến thành cơn mưa đạn. 6 tên VC vừa nói là một thành phần của bộ đội miền Bắc, và bọn chúng khởi sự tấn công vào Trung đội 11 của Úc.
Trong khi các quân nhân Úc nằm rạp xuống hoặc nhảy xuống những cái hố, tay súng liên thanh bị bắn gục, và mấy giây sau người thay thế cũng bị hạ. Từ bên cánh trái Trung đội, Jimmy và các quân nhân khác ria mấy loạt lên cây bắn rớt những tay súng bắn sẻ của địch, nhưng cùng lúc, họ thấy nhiều địch quân đang bò tới.
Trước hoả lực dữ dội của địch, các quân nhân Úc bị đè cứng tại chỗ và chẳng bao lâu thêm một số bị chết và bị thương. Họ không còn đường để thoát, nhưng họ vẫn không lùi bước. Đó là lúc Jimmy, sau khi rút chốt trái lưu đạn, bị trúng mãnh đạn ghim vào lưng, khiến anh kinh hoàng khi nhận thấy mình vẫn nắm trái lưu đạn đã rút chốt trong tay, nhưng khồng còn sức để ném. Dù sao anh cũng còn tỉnh táo, đủ để giúp anh lấy sợi dây thun dưới chân cột quanh trái lưu đạn trước khi bất tỉnh.
Chung quanh Jimmy đạn vẫn nổ như pháo rang, màn mưa bừng sáng với những quả khói mầu lam làm hiệu và những ánh lửa xanh của những viên đạn đại bác đang bay tới, và lực lượng VC tiếp tục tiến. Trong khi đó Trung đội 12 cũng trở thành mục tiêu của từng loạt đại pháo của địch khiến họ nằm yên.
Trung đội 10, không thấy đường dưới màn mưa dầy đặc, chỉ nhắm theo hướng tiếng súng mà tiến tới. Sau một lúc đi "mò" họ tới một vị trí cao và đột nhiên thấy địch quân nằm bên dưới . các quân nhân Úc lập tức nổ súng gây thiệt hại nặng nề cho địch quân, trước khi trở thành mục tiêu cơn mưa đạn.
Trong cơn mưa tầm tả, Đại Tá Harry Smith kêu gọi Pháo binh yểm trợ và trực thăng tiếp tế đạn dược.
Trung đoàn 275 của VC khi bao vây Đại đội D cũng bị thiệt hại nặng khi tung ra các đợt xung phong vào vị trí cố thủ của Đại đội D. Các đợt xung phong biển người của địch quân đều bị hàng rào cản Pháo binh yễm trợ tiếp cận chận đứng. Một số cán binh vượt qua khỏi bức tường lửa đều bị bắn hạ.
Trung đoàn VC trừ bị 274 phía sau bị khu trục oanh kích cũng bị thiệt hại không ít.
Trong khi đó, các quân nhân sống sót của trung đội 11 vừa đi vừa chạy, vừa lết vừa bò khi về đến vị trí của trung đội 12. Họ nghĩ rằng tất cả đồng đội của họ đã thiệt mạng, mà không biết rằng Jimmy chỉ bị thương, vẫn còn sống và đang nằm dưới bùn lầy, giữa các tử thi đồng ngủ. Trời mỗi lúc một tối.
Bây giờ tất cả quân nhân còn sống sót của Đại đội D đều tập trung tại một vị trí. Họ quyết định lập hàng rào phòng thủ ngăn chận quân thù. Thực ra họ không có sự lựa chọn nào khác, vì chỉ cách họ 300 thước, họ thấy rõ địch đang dàn quân, chuẩn bị cho đợt tấn công. Thoạt tiên, 1 hàng ngang chừng vài trăm tay súng VC chầm chậm tiến tới.
Lúc khoảng 100 thước , rồi 1 hàng rào ngang thứ nhì thành hình ở phía sau. Các quân nhân Úc biết rằng giờ quyết định đã tới. Họ phải vững tay súng ngăn chận tất cả đợt tấn công biển người của địch. Nếu không, họ sẽ bị tràn ngập và sẽ không còn người nào sống sót. Những chàng trai Úc yên lặng đợi chờ, nhiều người thầm cầu nguyện, , những người khác nghĩ tới những người thân.
Khi địch quân chỉ còn cách họ 50 thước, các quân úc đồng loạt khai hoả với một kết quả vô cùng tốt đẹp. Hàng loạt các tay súng VC bị bắn ngã, hàng ngang bị chận đứng và dội lại. Tuy nhiên bọn VC lì lợm và ngoan cố lập tức chỉnh đốn hàng ngủ, thành lập 1 hàng ngang thứ nhì, khi đoàn người này bị bắn ngã với những xác chết chồng chất, 1 hàng ngang thứ ba được thành lập và các tay súng VC tiếp tục tiến tới dưới những làn mưa đạn của các quân nhân Úc.
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 ra lệnh cho Đại đội B vừa mới trở về căn cứ Núi Đất phải trở lại ngay tăng viện cho Đại đội D và đồng thời chính Tiểu đoàn trưởng chỉ huy Đại đội A và chi đội Thiết vận xa đánh bọc lên ngay cạnh sườn địch giải vây cho Đại đội D.
Hết hàng này đến hàng khác, địch quân tiến tới không ngừng và đống xác người mỗi lúc mỗi cao.
Trước những đợt tấn công liên tục và kiên trì của địch, hầu hết các quân nhân thuộc Đại đội D nghĩ rằng họ chỉ sống sót trong một thời gian rất ngắn.
Tiểu đoàn D 445 bị đánh bất ngờ từ phía sau bị thiệt hại nặng, vòng vây bị chọc thủng và lực lượng Thiết vận bắt tay với Đại đội D.
Toàn quân của VC, Tiểu đoàn D 445 chạy về hướng Đông bị Đại đội B vừa tiến đến truy kích và bị bắn hạ gần hết.
Nhưng rồi họ nghe thấy những âm thanh cứu tử. Tiếng ì ì của Thiết vận xa của Úc đã vượt qua sông, chạy xuyên qua một lực lượng đông đảo của địch, vừa bắn vừa tiến tới vị trí của Đại đội D. Khi các Thiết vận xa của Úc tới gần, hàng ngang của VC bị đạn tơi bời khiến chúng từ từ tan rã trước khi tháo chạy.
Trong khi đó từ vị trí cố thủ của Đại đội D, các quân nhân Úc vừa vẫy tay vừa la hét, vừa khóc vừa cười. Cũng như các quân nhân Anh tại Agincourt, họ vừa kinh ngạc, vừa thích thú, không biết rằng những gì đang diễn ra có phải là sự thật hay không, không biết rằng họ đã thật sự đẩy lui quân địch, đã thật sự chiến thắng hay không.
Đêm hôm đó trời tạnh mưa. sáng hôm sau bầu trời quang đảng, các quân nhân Úc trở lại chiến trường tìm xác đồng đội, và giữa các tử thi, họ tìm thấy Jimmy Richmond vẫn còn sống.
Bị mất nhiều máu, không cử động được, và với trái lưu đạn rút chốt bên mình. Jimmy đã nằm đó trong những phút giây đợi chờ dài đằng đẳng, đợi một trái lưu đạn rớt xuống, đợi một nhát dao, một lưỡi lê, một viên đạn của địch. Và Jimmy tự hỏi không biết mẹ anh ra sao nếu anh không bao giờ trở lại. Nhưng Jimmy đã trở về, và mẹ anh đã ôm con trong nước mắt. Jimmy sống sót nhờ may mắn, nhờ các bạn đồng đột can trường và nhờ 1 sợi dây thun.
Sau đó một cuộc hành quân qui mô gồm Lữ đoàn 173 Nhẩy Dù Hoa Kỳ, một Tiểu đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ cùng với một số Tiểu đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà và Tiểu đoàn 5 Hoàng gia Úc, cuộc hành quân mang tên là Toledo.
Tuy chiến thắng tại Long Tân(núi Đất- tỉnh Bà Rịa) là một chiến thắng lẫy lừng, nhưng quân đội của Úc cũng tổn thất.
-18 binh lính tuổi từ 19 đến 22 tử trận
-26 binh sĩ bị thương
Trong cuộc hành quân này Pháo binh và tác xạ tất cả là 2.639 đạn 105 ly cùng với 155 ly yễm trợ cho Đại đội D.
CS BV bỏ lại 245 xác chết cùng với:
-2 Đại bác 57 không giật
- 4 súng chống chiến xa B-40
-1 Thượng liên12.7
-7 Trung liên RBD
-1 Trung liên BAR
-33 Tiểu liên AK 47
-1 Tiểu liên PPSh
-1 Tiểu liên Thompson
-2 Carbine M1 - súng trường SKS
-1 Garant M1
Với hơn 10.500 đạn các loại, 300 lưu đạn, 40 đạn súng cối và 22 đạn đại bác không giật.
Về sau tù binh VC do quân đội Mỹ bắt được khai là trong trận Long Tân thiệt hại của VC lên đến khoảng 500 chết và 750 bị thương.
Trận Long Tân có thể nói là trận đánh nổi tiếng nhất của Quân đội Úc trong chiến tranh Việt Nam. Một trận đánh mà ký giả Terry Smyth gọi là một trận đánh quan trọng khi viết rằng " các quân nhân Úc đã thắng một trận đánh quan trọng trong một cuộc chiến mà Hoa Kỳ thất bại".Nạn nhân chiến cuộc gia tăng kể từ tháng 12-1966, riêng chỉ Bình Định đã có đến 85 trại định cư với 129.202 người. Trong năm 1966, cuộc hành quân Attleboro lớn nhất, về phía Tây đồn điền Michelin ngày 14-9-1966, sau đó là Dầu Tiếng (Tây Ninh). Trung tá W.CBarott, Tiểu đoàn trưởng 2/27 bị tử thương khi đến tăng viện. Chuẩn Tướng E.H.De Sausure được thay thế bởi Chuẩn Tướng W.E. Depuy, Tư Lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh.
Năm 1967 (Đinh Mùi), để yễm trợ cho các nổ lực càn quét tại miền Nam, các cuộc oanh tạc miền Bắc gia tăng. Ngày 24-1-1967, Tổng Thống Jonhson cho phép phi cơ Mỹ đánh phá 16 mục tiêu mà trước đây bị giới hạn chung quanh Hà Nội. Đến ngày 27-2-1967 Hải Quân Hoa Kỳ đã được lệnh dùng thuỷ lôi phong toả các hải lộ dưới vĩ tuyến 20. (trích bài viết Nguyễn Đình Khánh).
Cái chết của em Thanh
Mười Thanh
Mẹ lầm chọn rể họ "Lưu"
Áo quần hào nhoáng bày mưu gạt lường
Làm sao thương được mà thương
Như con ma đói nằm chương giữa nhà
Nhìn thân hình của hắn gầy đét như con cá khô, nằm bẹp dí xuống sàn gác, hơi thở khò khè như người bệnh sắp chết, mà chán chường đến tột độ. Bao nhiêu tánh hư tật xấu đều tập trung và đó, chẳng biết má thương hắn ở điểm nào? Trong 8 hạnh của người hiền, tôi cố tìm 1 hạnh mà tôi có thể ép mình mà sống cùng hắn, nhưng chỉ có con số không!
Với người chung chiếu chung chăn
Nhưng chừng đây đó cách ngăn đôi bờ
Ngoài kia vạt nắng hững hờ
Chuyện đau thương cũ bao giờ mới quên
Ngoài kia vạt nắng hững hờ
Chuyện đau thương cũ bao giờ mới quên
Hắn đến với tôi không phải vì tình yêu trong sáng thánh thiện, mà là một âm mưu đen tối, nên không mang lại hạnh phúc thực thụ, mà nó chỉ mang lại cái xấu xa, tồi tệ. Biết tôi không thương , tôi phản bội, nhưng hắn vẫn bám cứng như sam. Hắn mang cái bệnh "hoang tưởng" ám ảnh bởi những người đàn bà đi qua đời hắn đều ngoại tình. Ngay từ đầu hắn đã gán tôi hai tiếng "ngoại tình". Bởi hắn "cố tình" không hiểu, tại sao lại bắt tôi phải thuỷ chung với người không chung thuỷ.
Đáp số tìm cứ thiếu
Đôi tim chẳng nhịp cùng
Người cố tình chẳng hiểu
Tôi chẳng lòng thuỷ chung !
Ong Kim Hà- Thanh Hiền
Thảo Cầm Viên- Sài gòn- 1966
Trong gia đình, cha mẹ và con cái đều khổ! Hắn luôn lo sợ sẽ mất tôi mất miếng mồi béo bở! Tôi khổ vì bị cưởng bức phải sống với kẻ thù người mà mình không yêu thương! Con gái tôi khổ vì cha không thừa nhận, khổ vì thiếu tình thương! Cái móng là nền tảng gia đình, móng xây không vững, không sâu, xi măng quá ít vì bị ăn chận, nên chỉ một thời gian ngắn, khi cơn bão thình lình ập tới, tại hoạ thảm khốc sẽ đến với những người sống trong căn nhà đó.
Kiếp này phải sống bên người
Biết bao cay đắng gượng cười cho qua
Chung chăn mà cảm thấy xa
Nỗi đau thân phận mù loà kiếp mai
Hắn thường khủng bố tinh thần nhiều hơn dùng võ tay chân, khi bạo hành xong thì lại vuốt ve dỗ dành, nhìn những vết bầm tím là những lời ân hận, thề thốt lần cuối sẽ từ bỏ rượu chè, trai gái. Đối với tôi, hắn không che đậy tánh hư tật xấu của bản thân mình, mà lời hứa cuội như cuộn phim cũ nhàm chán. Sống với hắn là những đêm dài ướt mắt đói meo, ngủ gục trên bàn may. Những nửa khuya hoảng loạn bởi cơn say điên cuồng ghen tương tra trấn về tinh thần. Chẳng biết hắn say thật, hay giã vờ say mượn cớ để hành hạ tôi???...
Rừng thương héo hắt tiếng cười
Dấu đi giọt lệ cho người đừng cay
Thân mềm qua những cơn say
Dấu hằn máu đọng đoạ đày nghiệt oan!
Gia tài của má cho làm vốn, chỉ một sáng một chiều tiêu tan như mây khói. Tôi sợ cảnh vợ chồng cải nhau như cơm bữa, sợ cảnh bạo động trong gia đình. Có về với má cũng thế thôi. Tôi nhũ thầm: "trời sinh voi, trời sinh cỏ". Tôi không còn khờ khạo về xin tiền má nữa, tôi biết nếu tôi xin má sẽ cho, nhưng.... tôi không muốn "ỷ lại" vào má nữa.
Ta sống trong đói rách
Mới quý hạt cơm vàng
Ta sống trong xa cách
Mới biết đời lầm than !
Tôi sống khốn khổ lây lất qua ngày, cái túng, cái thiếu, cái đói ngấm nghé bên ngoài cửa sổ, nhưng nhứt định không về xin tiền má nữa. Bữa nào hắn phát tiền thì tôi nấu ăn, bằng không hắn ăn ở đâu tôi cũng không cần biết. Còn chút ít nữ trang, tôi bán dần rồi dấu tiền mua thức ăn cho con.
Thấy hoàn cảnh bi đát của tôi, nên người chủ tôi lãnh may dù lúc trước mới cảm thương, kêu tôi tới nhà may. Đó là ba má của Kim Ngân, Kim Hà dân Bạc Liêu mang họ "Ong" Tôi có thể vừa may vừa trông con. Thì ra trời cũng còn thương kẻ khốn cùng!
Bên ngoài mưa rơi tầm tả, tiếng mưa trên mái tôn như nỗi buồn dội vào tiềm thức, như tiếng thủ thỉ của con "má đừng bỏ con nghe má". Trong trí óc non nớt của con, lúc nào nó cũng lo sợ tôi sẽ bỏ rơi nó như người cha sanh của nó. Mắt tôi bỗng mờ theo dòng suy tưởng, suýt tí nữa là kim may đâm vào tay, chợt có tiếng người hàng xóm gọi tôi. Bỏ may chạy ra thì tôi thấy con gái đang co ro ngoài hiên, ướt loi ngoi từ đầu đến chân, người run rẩy, môi thì tím ngắt. Tôi bế nó chạy về thay quần áo, quấn thêm khăn, ôm nó vào lòng để chuyền hơi ấm. Nhìn nó nằm im, mái tóc còn ẩm nước, tôi chép miệng than:
-Khổ thân cho con! Ngồi chi ngoài hàng ba để bị ướt! Rủi mà bị đau thì tiền đâu má mua thuốc!
Nó ngước nhìn tôi giọng hờn dỗi:
-Tại má may ở đó nên con mới tới! Tưởng có cái ti vi là bãnh lắm! Ai thèm coi đâu mà đuổi!
Tôi vỡ lẽ, bởi hôm trước má Kim Ngân nó giởn chơi, nó tự ái nên không vào trong nhà nữa. Nhìn gương mặt nó giống hắn như khuôn, nhất là cặp mắt với hàng mi cong vút mang vẽ đẹp Tây Phương, ánh mắt nó hiền từ biết bao, nhưng lại buồn não nùng như chứa cả Biển Sầu trong đó. Tánh nó không giống cái tánh của hắn, không giống cái tánh xảo quyệt, nó không biết nói dối mà rất thương người và ngoan hiền. Cái hãnh diện của người mẹ là sự giáo dục con cái.
Ong Kim Ngân-Thanh Hiền
Mấy tháng trôi qua... tuy cuộc sống chật vật thiếu thốn đủ thứ, nhưng có nó tôi đã can đảm vượt qua tất cả khó khăn. Tôi biết con nhớ ngoại, nhớ cậu,dì... nó mất mát cuộc sống tự do bay nhảy, nhưng tiền đâu mà về, đi may chỉ đấp đổi bữa có bữa không.
Thời điểm đó hay có nạn mẹ mìn bắt cóc trẻ em, tôi bận may quên để ý, lúc nhớ mới chạy đi tìm con thì chẳng thấy nó đâu hết, trong xóm túa ra tìm giúp. Tôi chết điếng như con mụ điên tính chạy báo Cảnh Sát, mới ra tới đầu hẻm thì thấy nó với Nhựt em trai của Kim Ngân, hai đứa nắm tay nhau thong thả đi về.
Tôi xem nó như báu vật vô giá, nâng như trứng vì cứ sợ bể, mỗi khi té chỉ xướt da thôi là lòng tôi đã xót xa. Chưa bao giờ tôi nặng lời với con, thì nói chi là chửi mắng hay đánh đòn, chỉ có phạt quỳ khi phạm lỗi. Lần đó phạt đến 3 tiếng đồng hồ, khi xả phạt, tôi vò cái đầu gối đỏ hỏn, ôm nó vào lòng mà rướm nước mắt:
-Con có giận má không?
-Tại má thương con nên mới phạt! Con hỗng dám giận má đâu!
- Con có biết là má sợ như thế nào không? Nếu con có chuyện gì làm sao mà má sống đây! Má còn sống đây là vì con... con biết không?
-Con xin lỗi má! Tại Nhựt rũ con chơi trò cút bắt! Tụi con ngồi dưới chân cầu ăn bánh!
-Má không cấm con đi chơi! Nhưng phải xin phép để má biết là con đang ở đâu?
-Con hứa sẽ không làm má buồn nữa đâu! Con... con hỗng thương ba đâu! Con chỉ thương má với cậu Nhơn thôi ! Sao lâu qua mà cậu Nhơn không về như cậu hứa! Bộ cậu hết thương mình rồi phải hông má?
Bỗng nhiên nó nhắc tới Nhơn nên tôi mũi lòng. Nó ngây thơ nhìn tôi sợ hãi:
-Tại cậu Nhơn dặn con đừng làm má buồn má khóc! Cậu hỗng dỗ được!Cậu lại dặn con phải bảo vệ đừng để người ta ăn hiếp má!
Hôn vào má con, ôm chặt nó trong vòng tay mình dặn dò:
-Tại cậu bận đi hành quân nên chưa về! Chứ hỗng phải cậu hết thương mình! Từ nay con đừng nhắc cậu Nhơn nữa nghen! Ba nghe ba sẽ đánh má!
Nghe chừng sầu đọng dòng Hương
Ôm con mà nhớ người thương năm nào
Mưa rơi mưa rớt nghẹn ngào
Đền tàn đơn lạnh buồn xanh xao buồn
Xiết chặc con trong vòng tay mà cảm động, tôi thấy sự hy sinh của mình thật xứng đáng. Chạnh nhớ ngày sinh nhật của con, là ngày vía Quán Thế Âm Bồ Tát, tôi tin như có một sự thiêng liêng nào đó, ngài ban nó cho tôi để "cứu khổ ", cho tôi một niềm tin để sống, để trả cho hết cái nghiệp nặng nề mà tôi đã lỡ vay từ vô lượng kiếp.
Nó như một nàng tiên nho nhỏ, lời nói rất khôn ngoan mà những đứa trẻ cùng lứa tuổi chưa bao giờ nghĩ đến, những lời nói của con đã xoa dịu phần nào sự đau khổ riêng tư của tôi. Từ hôm bị phạt cho đến sau, nó chẳng bao giờ tái phạm nữa, và chẳng bao giờ dám nhắc đến cậu Nhơn nữa. Tôi vì con mà che dấu bằng nụ cười không lệ, với hắn tôi nguỵ trang là kẻ ngu đần, cúi đầu nhận tất cả lời đay nghiến hành hạ.
Ta cười như kẻ ngu ngơ
Như tên đần độn dại khờ từng đêm
Với người ta cố tìm quên
Mà sao vẫn nhớ đến tên một người !
Chiều cuối tuần hắn về sớm hơn thường lệ, hình như bắt được cái áp phe nào đó nên móc tiền ra khoe. Hắn chở tôi đi làm tóc trên đường Cao Đạt, tôi không biết hắn mưu mô gì đây? Mới vừa bước vào tiệm, chưa kịp ngồi xuống ghế, thì một cô thợ vừa trông thấy hắn đã reo lên:
-Đi đâu mà mất biệt vậy cha nội! Con Hương nó tìm ông khắp nơi! Cho người ta cái bầu rồi bộ muốn quất ngựa truy phong sao cha nội! Còn cô nào đây?
Hắn trừng mắt nhìn cô ta:
-Đừng nói bậy bạ lộn xộn! Đây là vợ sắp cưới của tôi!
Cô ta nhìn sững tôi rồi im bặt, nghe hắn nói dối thật tài tình mà nghẹn lời. Tôi lặng người trong cay đắng mà cơn giận muốn trào lên, những ý nghĩ hổn độn quay cuồng làm tôi chóng mặt. Từng nhát kéo, từng nắm tóc rơi... như lòng tôi đang tan tác. Tai tôi lùng bùng không nghe lời thợ hỏi, chừng cắt xong thì mái tóc ngắn ngủn.
Mỗi ngày, tôi lại khám phá thêm những bí mật của hắn, làm tôi càng kinh tởm và ghê sợ con người nhiều thủ đoạn kia. Màn bí mật được vén lên một tí "vợ hắn đã trốn đi từ lâu". Tôi đã từng sống trong cảnh trốn chui trốn nhủi đó nên cảm thông người đồng cảnh ngộ. Hắn vẫn còn đi tìm người vợ cũ . Còn mình chẳng biết là vợ bé thứ mấy?
Từ tiệm tóc ra, tôi không đá động gì tới cô gái mà hắn tặng cho cái bầu. Tôi nghĩ có hỏi cũng bằng thừa, hắn đủ miệng lưỡi để bào chửa. Tôi quá nhàm chán cái ván cờ người, những con cờ thí lần lần bị loại, còn tôi thì đến bao giờ? Hắn như cái thùng rỗng tếch thích khoe khoang, chỉ biết hưởng thụ và ích kỷ. Tôi lại thầm trách má, sao người lại trói buột tôi vào với một kẻ không ra gì?
Xe ngừng trước rạp hát Hoà Bình thuộc vùng Chợ Lớn, hắn kéo tôi đến giới thiệu người bác gái đang ngồi bán hàng. Tôi đã từng nghe cô Hai Tùng kể về người bác này không con, đã nuôi hắn từ tắm bé, được bác trai cưng chìu muốn chi được nấy, làm tình làm tội bác gái đủ điều. Bác kể như là mẹ, thế mà từ bến Hàm Tử đến chợ Hoà Bình đâu có bao xa, vậy mà gần cả năm qua hắn chẳng đưa tôi đến chào bác. Tôi chỉ gặp bác một lần đó rồi tôi, tôi thấy thương hại bác vô phước nuôi nhằm đứa con "bất hiếu tử".
Thảo cầm viên Sàigòn 1966
Theo thường lệ, sau ngày đưa ông Táo tôi vẫn về Bà Rịa ăn Tết. Thanh, đứa em kế nhỏ hơn tôi 2 tuổi, năm đó nó 21 tuổi ta. Thanh sanh ngày 12-7-1947 âm lịch (Đinh Hợi). Lúc nhỏ hay tè ban đêm nên hay bị trong nhà trêu chọc. Khác hẳn với anh Tám Búp thân hình lực lưởng bởi cử tạ. Mười Thanh ốm lêu nghêu gần đụng cửa, nó cao nhất nhà, giầy phải đặt vì bàn chân quá khổ. Nó đẹp trai không thua anh Tám Búp, có hàm răng đều như hạt bắp, tánh hiền lành ít nói chứ không khôi hài như anh Tám Búp.
Má đã đi hỏi vợ cho nó, người dâu này do má chọn, mà bà mai là cô Tư Tùng. Người vợ tương lai của nó cùng một tuổi với tôi, lớn hơn nó hai tuổi. Nó luôn bằng lòng với số phận, luôn chịu thiệt thòi trong gia đình, cũng nhờ nó làm liều đào hầm trú ẩn mà cả nhà thoát nạn nhiều lần.
Tết Đinh Mùi (1967) tôi ở chơi cho đến đầu tháng 2. Ngày 11-2- 1967 (âm lịch).Buổi trưa Thanh cõng con gái tôi băng ruộng qua xóm Lăng xem hát bội ở Miễu. Cũng vào hôm ấy hắn về dẫn theo đám lâu la của Quốc Thanh, trong đó có Hùng đầu bò. Đám choai choai ăn mặc sang trọng, đeo toàn đồng hồ đắc tiền, đeo vàng sáng chói, làm má nghĩ rằng thằng rể mình có thớ. Thừa dịp đó hắn "nổ " bịa chuyện làm áp phe, thế là moi của má một mớ tiền nữa. Có tiền rồi hắn kéo đám lâu la ra chợ Bà Rịa ăn nhậu.
Chiều ngày 11-2- 1967. Hôm đó Thanh lái chiếc xe Gobel về Long Điền lo ruộng muối, theo nhân chứng, nó cùng một người lớn tuổi đi xe đạp vừa qua khỏi cầu Thủ Lựu, thấy chiếc xe hơi chạy lạng quạng, nên 2 người mới ngừng xe tránh tuốt bên lề. Gã tài xế say rượu chạy tông vào lề và cán chết cả hai. Gây tai nạn xong gã tài xế bỏ chạy luôn, nhờ người tài xế lái xe cho quận rượt theo bắt lại.
Chưa đầy hai năm, tang anh Tám Búp chưa mãn, lại thêm cái tang của em Mười Thanh. Má như tre già cứ mãi khóc măng non. Lại một lần nữa chiếc xe tang buồn hiu hắt qua cầu sông Dinh đi về hướng Long Điền. Con đường sân banh cát trắng chói chang, làm trắng thêm trên vành khăn tang của người goá phụ trẻ.
Thương người vợ mới hứa hôn
Khăn tang trắng tóc khi tròn đôi mươi
Thi hài bạc mệnh em tôi
Chết nằm tức tưởi nghẹn ngào đau thương
Chiều nay, bên ngôi mộ của anh Tám Búp vừa xanh cỏ, lại mọc thêm nấm mồ mới đấp, những người thân yêu lần lượt trở về nằm kế bên nhau. Con gái tôi vừa lên 5 mà đã 2 lần quấn khăn tang. Đôi mắt nó đã buồn nay lại càng buồn hơn, nó chợt buột miệng hỏi:
-Má ơi! Tại sao những người mình thương đều bỏ mình mà đi hết! Còn má, má có bỏ con không?
Tôi ôm con vào lòng mà nước mắt rưng rưng cố trấn an nó:
-Má thương con nhất trên đời! Chẳng bao giờ má bỏ con! Chỉ có khi nào...
Tôi bỏ lửng câu nói. Nhìn khói hương quyện bay theo gió Tết se se lạnh, nắng ảm đạm buồn hiu hắt trên nấm mộ mới đấp. Gia đình tôi lại thêm một goá phụ trẻ mặc áo tang thay cho áo cưới. Má ngồi bệt xuống cát, người đã kiệt sức sau những lần tang thương. Hàng tre tầm vông bên miễu Long An vàng vọt theo mầu nắng úa, lá rì rào một điệp khúc buồn thiu...
Anh tôi chết ở sa trường
Em tôi chết ở ven đường quê hương
Qua cầu Thủ Lựu buồn vương
Mộ anh xanh cỏ mưa buồn mộ em !
Bao nhiêu tai biến xảy ra, nhà đã vắng giờ càng vắng hơn. Những người đàn ông hao hụt dần, chỉ còn lại những goá phụ trẻ nước mắt vơi đầy. Trên bàn thờ anh Tám Búp đặt thêm cái lư hương, bài vị mới, bức ảnh truyền thần Mười Thanh do em trai chị Tư thợ may là con trai chú Ba Cân vẽ tặng.
Năm này anh Sáu Hoa trong lính Địa Phương Quân, thường đóng quân miệt An Ngãi quê ngoại ,sau trận cải vã dẫn đến xô xát, má từ anh, anh chẳng về nhà cho đến khi anh Tám Búp tử trận. Từ đó anh thỉnh thoảng về thăm, đến chào má, má làm thinh vì còn giận. Sau khi Mười Thanh chết, má mới nói chuyện lại với anh.
Nhà bây giờ chỉ còn đứa em gái út mới 14, nó học trường tư, má mướn đứa chăn bò. Nó tên Sao, theo cha mẹ trôi dạt từ Gò Đen về xóm Đồng, Long Hương, nơi có rất nhiều người Gò Đen về lập nghiệp. Ngày đầu nó đến ở, nó đến một mình tay ôm gói quần áo, trông nó còn rất nhỏ khoảng chỉ hơn 10 tuổi, dù người không gầy nhưng trông bệnh hoạn, da thì mét chằng mét ưởng, gương mặt trông khờ câm đến tội nghiệp. Nó giỏi dắn, có sức chịu đựng gian khổ, và dễ dạy, thật thà dốt nát như phần đông dân quê.Cả nhà đều thương nó, chỉ hay cải cọ với con gái tôi vì 2 đứa đều là con nít.
Với người làm công, má luôn thương họ, chưa bao giờ cho ăn thức ăn dư thừa, tánh má rất thương người nghèo và hay thương lính, thường bố thí. Thấy nhà quá quạnh hiu nên tôi để con ở lại với ngoại ít lâu, nó vẫn thích ở quê hơn, nhờ vườn tược nhà cửa rộng rãi, lại thêm có bạn là con của anh Tư Dận vui đùa. Má cho anh Tư Dận cất nhà ngay vườn chuối có cây xoài lão Thanh ca. Nếu không ép nó nó chẳng bao giờ thích về Sàigòn.
Nếu nói về mặt tâm lý, con cái luôn thích sống với cha mẹ hơn, nhưng... với con gái tôi thì ngược lại, bởi vì dù có đủ cha mẹ, nó vẫn thiếu thốn vòng tay yêu thương của người cha, nó cần tình phụ tử, nhưng người cha sanh của nó không cho nó những thứ đó. Tôi có thể cho con vòng tay yêu thương của một người mẹ, nhưng không thể cho con vòng tay yêu thương của một người cha.
Cho con cho cả cuộc đời
Gia tài của mẹ là lời thương yêu
Cho con tất cả thật nhiều
Thiếu tình phụ tử như diều đứt dây
Nó thích lời dịu ngọt, thích âu yếm vuốt ve, nhưng nó không dám gần cha, cũng bởi hắn xem nó là đứa con " ngoại tình", nó là chứng tích "phản bội ", một cái "gai nhọn " trước mắt. Những khi giận hắn hay nguyền rủa, chửi mắng xỏ xiên, chớ không dám bạo động với con, vì hắn thừa biết rằng "bằng mọi giá" tôi sẳn sàng liều mạng bảo vệ con.
Từ tháng 10-1966, Thuý về Mỹ Tho thăm nhà, khi trở lại Thuý thay đổi hẳn vì có người yêu. Vừa qua Tết Thuý báo cho biết là sẽ giải nghệ, tiền đi bar để dành bấy lâu nay đủ mua máy may và học nghề, Thuý sẽ về lại Mỹ Tho luôn. Vài tuần sau em gái Liên tìm đến, được gia đình tha thứ nên Liên cũng hoàn lương đi lấy chồng. mất cả hai mối lợi hắn càng vắng nhà và càng say xỉn nhiều hơn.
Thuý
Chiều chiều ngóng về hướng Bà Rịa mà đau xót tình anh em hao hụt, nhớ đến con tôi lại tự trách mình nhu nhược, đã đánh mất vòng tay phụ tử cho con. Mỗi lần nhớ đến càng thêm đau lòng, và càng xót xa hơn khi nghe bài hát Lòng Mẹ. Tôi chưa bao giờ quên công ơn sanh dưỡng lao nhọc kia, mà cũng không thể quên nỗi đau tủi nhục mà má đã mang đến cho tôi. Có phải tôi là người con bất hiếu không? Cha mẹ chọn bến nước trong cho con trao thân gửi phận thế mà má lại chọn bến nước đục hôi thối của con kênh Nhiêu Lộc, làm vấn đục thêm dòng nước sông Dinh.
Chiều qua con sáo sang sông
Chọn lầm bến đục đau lòng sáo ơi
Vì đâu tình dỡ dang rồi
Xót xa, cay đắng ngậm ngùi tình qua...
Đôi khi nghe tin đánh nhau miệt Bà Rịa, tôi phải tất tả vượt bao hiểm nguy về thăm con. Lối đường bọn VC hay đấp mô là Đại Tòng Lâm. Lần đó tôi phải ngủ lại Long Thành, đợi lính mở đường. Nhìn về hướng Bà Rịa nhiều đám khói lên cao ngất trời do máy bay oanh tạc. Tôi phải lội bộ cả hơn 5 cây số giữa những đụn khói và tiếng súng cắt chùm xa xa, mà trên đầu thì máy bay lượn vòng quanh tìm mục tiêu thả bom, cả cánh rừng chồi mù mịt khói.
Lần đó, tôi nhất định không trở về bến Hàm Tử nữa, thấy tôi cương quyết hắn đành nhượng bộ. Đồ đạc trong nhà chỉ còn cái giường đơn độc, chẳng biết hắn dọn đi đâu và sống với ai tôi không cần biết đến nữa?
Những chặng đường bão loạn
Còn lại chỉ vườn hoang
Những chặng đường ân oán
Còn lại chỉ lầm than !
Sau 2 năm, số tiền má cho làm vốn và nữ trang tiêu tan hết, tay trắng lại hoàn tay trắng. Gần 2 năm sống nơi bến Hàm Tử đã đủ cho tôi thấy con người thật của hắn, chỉ là gã du đảng "hạng bét", một tên "ma cô lừa bịp". Tôi cố tìm một điểm tốt nào đó của hắn mà tôi có thể thương để sống chung hoà bình, nhưng... chỉ là con số không. Bởi vì từ lúc ban sơ giữa hắn và tôi không cùng chung biên giới, mà cái hố sâu thù hận càng ngày càng đào sâu thêm.
Bến tiêu tương với tháng ngày
Rối trăm nghìn mối bủa vây oán cừu
Người đời trăm kế nghìn mưu
Mà sông nghiệp chướng luân lưu chảy hoài...
Tôi ví má như cây cầu tre gập ghềnh, tạm cho hai bên đi lại với nhau, rồi một ngày giông bão nào đó, con mọt thời gian sẽ đụt nát chiếc cầu tre kia, đó cũng là ngày hắn phải trả cái giá đã gán cho tôi cái tội ngoại tình và phản bội.
Ngày nào đó chiếc cầu tre sẽ gẫy
Bỏ mặc người tôi ngoảnh mặt quay lưng
Qua lối rẽ mặc dòng đời đưa đẩy
Bên kia cầu tôi bỏ mặc người dưng
Sau 2 năm , sống ở Bến Hàm Tử đã cho tôi thấy cái mặt trái cuộc đời và lòng người. Ngoài cái thối nát của xã hội, mối liên hệ giả tạm với "Hội" chỉ là "già nhân ngải mà non vợ chồng". Ngoài tình bạn lọc lừa của nhỏ Ai, là tình bạn chân thành của Nguyễn Tri Ái, Đài sinh viên người Phước Hải, là ngâm sĩ Hàn Dạ Xuyên trong Tao Đàn của Đinh Hùng, Oanh, những tấm lòng nhân hậu của ba má Ong Kim Ngân, Kim Hà... nó đã cho tôi một kinh nghiệm sống.
Từ giã Bến Hàm Tử với bao kỷ niệm vui buồn lẫn lộn. Thi sĩ Đinh Hùng qua đời vào mùa Thu ngày 24 tháng 8 năm 1967, thì tôi cũng rời Sàigòn sau đó một tuần.
Khi Tư Xê em của hắn bị thương mất một cánh tay thành phế binh. Tôi với hắn có đến bệnh viện Vũng Tàu để thăm. Nhìn người vợ nhỏ với đàn con nheo nhóc, tôi bỗng dưng ái ngại dùm, tôi chưa lần đến nhà Tư Xê nên không biết cuộc sống của gia đình Tư Xê ra sao? Lúc đó thì Hà vợ lớn của Tư Xê đã tha phương bương chảy một mình nuôi 4 đứa con, vã lại bây giờ thêm bầy con nữa mà tiền lính nghèo lấy đâu mà nuôi cả hai dòng con. Tôi nhìn anh em hắn, nửa thương hại, nửa khinh bỉ!!!...
Trận chiến Sa Huỳnh 1967
Liên quân Việt-Mỹ trận Sa Huỳnh
Giữa tháng 2 năm 1967, để chận đứng các hoạt động của VC. Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh phối hợp với lực lượng Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, khởi động mộ cuộc hành quân truy lùng địch tại khu vực Sa Huỳnh.
Một cánh quân gồm 2 Trung đoàn Bộ binh và 1 chi đoàn Thiết quân vận, tảo thanh địch ở phía Tây Sa Huỳnh.
Cùng lúc đó một thành phần gồm 1.500 chiến binh thuộc lực lượng 3 Thuỷ Bộ TQLC Hoa Kỳ từ các chiến hạm đổ bộ lên Sa Huỳnh.
Trong cuộc đổ bộ này TQLC Hoa Kỳ đã kịch chiến với 2 Trung đoàn Cộng quân, khi quân đội Hoa Kỳ khai triển đội hình tiến vào khu vực phía Tây, nơi mà Cộng quân đã lập nhiều cụm chốt liên hoàn với hệ thống phòng ngự kiên cố.
Được sự yễm trợ mạnh của phi pháo và hải pháo TQLC Hoa Kỳ đã làm chủ trận địa và sau đó đã tấn công chọc thủng phòng tuyến của Cộng Quân.
Cuộc hành quân kết thúc ngày 21 tháng 4 năm 1967 với kết quả:
Liên quân Mỹ hạ 805 CQ tại trận, bắt 52 tù binh, tịch thu 42 súng cộng đồng và 139 súng cá nhân.
Tại Tân Cảnh. Dakto cách thị xã Kontum khoảng 42 Km về phía Bắc. Trận Dakto xảy ra nào ngày 3 kéo dài đến ngày 22 tháng 11 năm 1967. Tại cứ điểm E 43 còn gọi là đồi Chalie, gần quốc lộ 14 thuộc xã Tân Cảnh cũ, nay thuộc địa bàn thị trấn Dakto tỉnh Kontum.
Khi trận chiến Dakto đẩm máu sau cùng của năm 1967, tại đồi 875 tàn đúng vào ngày lể Tạ Ơn.
Bên Hoa Kỳ tham chiến gồm có:
-Sư đoàn 4 Bộ binh do Trung Tướng Woilliam R. Peers, chỉ huy Sư doàn kiêm chỉ huy mặt trận Dakto
-Lữ đoàn 173 độc lập do Thiếu Tướng Leo H. Schweiter chỉ huy
-1 Lữ đoàn của Sư đoàn Không Kỵ số 1
-Các đơn vị Không Quân
-Lực lượng tham chiến Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà
Lữ đoàn Bộ binh 42
Lực Lượng Cộng Sản Bắc Việt gồm:
-Sư đoàn 1 với 3 Trung đoàn 66-174 và 320
Trung đoàn trưởng là Đàm Văn Nguỵ
-Trung đoàn độc lập 21
-Trung đoàn pháo binh 40
-Tiểu đoàn Kontum (bộ đội địa phương Trung Nguyên)
Trở lại Với chiến trường Quảng Ngãi trong năm 1967, song song với cuộc hành quân ở Sa Huỳnh. 3 Trung đoàn 3 Thuỷ bộ TQLC Hoa Kỳ được tung vào Tây Nam Quảng Ngãi để truy kích 2 trung đoàn Cộng Quân.
Đến tháng 4 năm 1967, tin tức tình báo của Liên quân Việt-Mỹ ghi nhận 1 Trung đoàn CQ vừa xâm nhập vào khu vực gần địa giới hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định.
Nhằm triệt hạ toàn bộ các căn cứ địa của CQ ở vùng cận sơn phía Nam Quảng Ngãi. Ngày 8 tháng 4 năm 1967, Liên quân Việt- Mỹ đã tổ chức hành quân vào vùng này.
Cuộc hành quân kết thúc ngày 17 tháng 4 năm 1967 với kêt quả:
-100 CQ chết
-9 vũ khí tịch thu
Phía bên Hoa Kỳ
-12 tử trận
-40 bị thương
Sư đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ tăng viện chiến trường Quảng Ngãi. Trong những tháng đầu năm 67, song song với các cuộc hành quân phối hợp với Sư đoàn 22 Bộ binh Việt Nam Cộng Hoà, tảo thanh Cộng Quân Bình Định. Sư đoàn 1 Không kỵ còn tăng phái một số đơn vị tiếp ứng binh đoàn vị bạn trong nhiều trường hợp.
Trong đầu tháng 4, ngay khi Thiếu Tướng John Tolson III thay thế Tướng Norton trong chức vụ Tư Lệnh Sư đoàn. Lần đầu tiên kể từ khi tham chiến tại Việt Nam. Sư đoàn 1 Không kỵ đã hành quân ngoài vùng 2 khi được yêu cầu tiếp ứng 1 đơn vị TQLC ở phía Nam Quảng Ngãi.
Đến đầu tháng 10-1967, lo ngại về sự gia tăng các cuộc tăng cường quân số của CQ tại vùng 1. Đại Tướng Westmoreland, Tư Lênh Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã ra lệnh cho Sư đoàn 1 Không kỵ điều động 1 Lữ đoàn ra Chu Lai để tham dự cuộc hành quân Wheeler/Wallowa do Sư đoàn Americal Hoa Kỳ (mới thành lập) tổ chức.
Lữ đoàn 3 đã được Tư lệnh Sư đoàn 1 Không Kỵ giao nhiệm vụ này. Tham gia cuộc hành quân nói trên được một tháng. Lữ đoàn 3 lại được điều động lên phía Tây Kontum tăng cường cho Sư đoàn 4 Bộ binh và Lữ đoàn 173 Nhảy Dù tại mặt trận Dakto, để rồi sau đó lại được điều động về Bồng Sơn để tiếp ứng cho trung đoàn 1/8 trong một chiến trận 9 ngày tại Tam Quan.
Cuối năm 1967, bộ Tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ lại quyết định điều động Sư đoàn 1 Không kỵ ra vùng 1 tăng cường cho các đơn vị Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, để các đơn vị đó sau này có thể cải tiến chiến thuật hành quân trực thăng vận khi quan sát các cuộc đổ quân của Sư đoàn 1 Không kỵ. ( trích bài viết Vương Hồng Anh).
Bí Mật người hai mặt
Có người trai ấy! Thành đô
Đem theo bụi phấn xây mồ cho em
Tình đời đổi trắng thay đen
Càng nhiều cay đắng càng nhen lửa hờn!
Nhà má giờ đơn chiếc, hắn chẳng giúp được gì mà còn lại rút rỉa thêm. Số tiền tử của anh Tám Búp vừa sạch, thì hắn lại ngắm nghé số tiền bảo hiểm má vừa lãng bồi thường tai nạn của Mười Thanh. Trong thời gian này hắn gặp lại rể chú Tư Chà, lại "nổ " khoe có quen lớn, là sẽ lo cho con chú về làm " lính kiển" với số tiền lo lót là 10.000 đồng. Chú Tư Chà tin tưởng nên giao tiền, hắn ẩm trọn rồi giông mất. Đợi mãi không thấy con mình được thuyên chuyển, chú mới lên nhà hỏi, khi ấy mới lòi ra là chú bị rể của má lường gạt.
Tôi biết nếu mình còn ở lại nhà thì cái hầu bao của má, trước sau gì cũng sẽ lủng, mà hàng xóm còn bị hắn lường gạt thêm. Nên khi ấy hắn có ý muốn đưa tôi về Thị Nghè cho biết ba hắn, tôi bằng lòng đi. Sau khi đảo chánh Ngô Đình Diệm thì ba hắn được trả tự do và làm việc tại hãng chén, ông lập gia đình khác, má kế là dì của Phạm Văn Liễu là Cảnh Sát quận Tân Bình (Phú Nhuận).
Sơn em trai Kim Ngân- Kim Loan (Vũng Tàu)
Đường vào thủ đô Sàigòn, Cảnh Sát ngày càng kiểm soát chặt chẻ hơn, nhất là những chuyến xe từ lục tỉnh lên, tất cả phải ngừng tại ngã tư xa lộ Hành Xanh. Khách thì phải đi bộ qua để trình căn cước, còn hàng hoá bị lục soát kỷ vì bọn nằm vùng thường dấu vào những càng xé rau mang vào thủ đô.
Ngã tư xa lộ Hành Xanh
Khu Thị Nghè với giòng sông đen đuổi, dơ bẩn và thiếu vệ sinh, những nhà sàn cất lấn ra mé sông, con nước lớn, ròng không đủ sức cuốn hết những rác rưởi dơ bẩn của người vô ý thức vất xuống và những nhà cầu tiêu trên sông. Trong xóm lao động, con hẻm sâu hun hút, nhà san sác, con người chen chúc sống như đàn kiến, sự thiếu thốn cơ cực nhất là sau những cơn mưa nước đọng từng vũng lẩy lội.
Con hẻm vào nhà ba của hắn đối diện với khu dưỡng lão Thị Nghè, đầu hẻm thì còn rộng một chút, đi càng sâu càng hẹp lại, quanh co uốn cong như rồng rắn. Căn nhà của má kế hắn thật nhỏ, nếu tính ra còn nhỏ hơn cái nhà làm bánh tráng của má. Căn nhà mái tôn ẩm thấp với cái gác lửng, bước vào là đụng ngay cái bàn kế sát vách với 2 cái ghế, nhà tắm che ngang bằng tắm bạt nylon. Nhà cầu thì nhà cầu công cộng phải ra mé sông.
Sông Thị Nghè
Tôi được nhường cho cái giường đơn kê gần bên cửa sổ, cách mấy bước là nhà bếp, gia đình sống chen chúc nhau như trong "ổ chuột" . Tôi so sánh nó còn thua cái "chuồng bò" của má.
Má kế hắn có 2 đứa con riêng vẫn ở chung, tụi nó ngủ trên gác, bên dưới nhà giường của ba hắn và dì kế. Lần đầu tiên tôi mới gặp ba và dì kế của hắn, ông bà rất dễ dãi, nên tôi không phải làm dâu giống như những nàng dâu khác bị hành hạ. Hắn không thích tôi mặc áo dài, nên tự đi mua cho tôi mấy bộ đồ đầm và bắt tôi mặc, nhà gần sở thú nên tôi thường dẫn con sang đó coi thú và chụp hình.
Thảo cầm viên - 1967
Vào năm này những con hẻm thường có nạn du đảng, tiêm nhiễm lối sống bụi đời, chúng bỏ nhà sống chui rúc trong mấy khu dân sinh lầy lội, mặc dù hắn trong nhà binh vẫn còn theo băng đảng. Một lần về một mình vào con hẻm nhà ba hắn, tôi bị đám du đảng hơn 10 đứa chận đường chọc ghẹo. Bữa đó tôi mặc áo dài, tôi sợ tụi nó cậy đông ùa ra giựt đồ nên tôi tảng lờ cố đi thật nhanh. Tụi nó thấy thế càng làm già, đứa thì chận đầu, đứa kéo giỏ, thằng thì ở phía sau. Tôi bị vây bốn phía, tụi nó lại buông ra những câu nói tục tủi bẩn thỉu nhất mà tôi chưa từng nghe qua. Cơn giận bốc lên, tôi quên mất cả nguy hiểm, cô gái có nét hiền lành thuỳ mị trong chiếc áo dài biến mất. Tôi bỏ cái giỏ xuống, hai tay chống nạnh quắc mắt hét lên thách thức:
-Thằng nào dám nói câu ? Ra đây tao đánh chết mẹ mầy cho coi!
Tụi nó nghĩ rằng tôi đi một mình thì đâu dám chống cự. Đám du đảng nhóc con bị phản công bất ngờ, nên hoảng hồn bỏ chạy tứ táng. Bà bán quán nói bâng quơ:
- Ghẹo chọc con gái người ta! Bị hâm lủi mất hết rồi!
Biết mình quá lĩnh liều, nhưng lúc ấy tôi phải tự vệ thôi nên cái sợ nó trốn đâu mất. Nhân dịp Phạm Văn Liễu ghé thăm, thấy nơi ở chật chội quá nên rủ về nhà má của Liễu ở Quận 3 cũng trong hẻm mang số 108/44 L Trần Quang Diệu. Tôi sợ con hẻm viện dưỡng lão nên qua nhà má Liễu tạm trú một thời gian.
Qua khỏi cầu Cách Mạng, chợ Phú Nhuân nằm bên phải, tới Nguyễn Huỳnh Đức quẹo trái, qua khỏi đống rác hôi hám, rẻ trái đi ngang qua kho hàng của Mỹ nằm trên đường Lê Quý Đôn. Sống theo kho hàng Mỹ là đám đạo chích, buôn bán chợ đen và xóm "chị em ta".
Phạm Văn Liễu lúc ấy là Cảnh Sát tại quận Tân Bình, vợ nhỏ ở làm dâu, vợ lớn ở nhà riêng, được 3 trai : Châu- Phong-Chỉ. Gia đình Liễu rất đông anh em, Tôi chỉ nhớ người em trai kế tên Huê cũng đi lính và 2 đứa em trai nữa, 1 đứa tên Tòng, và 3 người em gái. Cô Năm em gái lớn có chồng lính dân Huế. Thêm người cháu gái tên Mảnh nghề thợ may, cô dạy tôi may chiếc áo dài đầu tiên, mặc đi đám cưới với cô ở Cái Bè năm 1968.
Cô Mãnh bên trái(người thứ nhất)
Thanh Hiền (thứ 2 từ trái qua) Cái Bè 1968
Ba mẹ Liễu vẫn còn đầy đủ, mẹ Liễu là bà cốt lên đồng. Trong khi đợi tìm thuê nhà trọ, mẹ Liễu thu xếp cho tôi ở nhà cô Năm, căn nhà nằm phía sau bờ tường kho hàng Mỹ, ,mà tôi không ngờ cái căn nhà kế bên lại là cái động " gái mãi dâm ".
Hắn hoà nhập thật lẹ vào cái môi trường mà hắn ưa thích. Một bầy ma nữ bao quanh, gã "Trư Bát Giới" đang trửng giởn thật trơ trẻn với bầy yêu nữ. Một ả thì ngồi trên đùi, ả kia thì bá cổ, ả nọ thì kề vai, còn hai tay hắn thì nham nhỡ mò mẫm trên ngực ả nọ. Thấy tôi đi ngang, hắn gọi vói bà chủ động và cố ý to tiếng để tôi nghe và xem tôi có ghen không?
-Má Năm ơi! Vợ con đây này!
Một bầy ma nữ bao quanh
Gã Trư Bát Giới lầu xanh cợt đùa
Đắm trong mê lộ say sưa
Mặt dầy chẳng biết thẹn thùa mà chi !
Hắn vừa nói vừa ôm ả nọ mà hôn. Nhìn qua cảnh ấy, mặt tôi đỏ bừng xấu hổ ù chạy vào nhà, bên tai vẫn còn nghe tiếng cười tinh quái của hắn với đám gái ăn sương đuổi theo. Tôi cảm thấy bị sĩ nhục hơn là ghen. Độ 10 phút sau hắn mới mò về, mặt thì trơ trẻn, tỉnh bơ như không có chuyện gì xảy ra. Không dằn được cơn nóng, không nói không rằng, tôi dang tay hết sức mình táng "bốp" vào mặt hắn muốn nổ đom đóm, trên má hắn dấu bàn tay tôi đỏ lửng. Hắn biết lỗi nên làm thinh.
Hơn tuần sau, hắn thuê được phòng trọ cách nhà cô Năm vài trăm thước. Chủ nhà là ông Tư, trong cuốn sách War Việt Nam, tôi thấy có ảnh ông Tư với chiếc xe bò nghênh ngang trên đường phố Phú Nhuận. Ngày trước đường Nguyễn Huỳnh Đức là vùng thôn quê, Ông Tư sống nghề ruộng rẫy. Nhà ông là căn nhà ngói âm dương , ông ngăn ra 1 phòng cho hai má con bà Hai thuê, người con nuôi bà Hai tên Xệ, trước kia là đứa chăn bò cho ông. Hiện tại bà hai dọn vào hẻm cách đó mấy căn. Lúc tôi dọn đến thì không trông thấy chiếc xe bò đâu nữa.
Ông Tư có khu đất khá rộng với căn nhà ngói âm dương kiểu xưa, trong đất có khu nghĩa trang gia đình. Cô con gái tên Ty không chồng mà có con, đó là đề tài để hắn chế diễu, hắn càng thích thú khi cô Ty tức giận chửi bới. sư khinh bỉ của cô càng làm hắn đùa dai bằng những cử chỉ sàm sở dơ bẩn. Tôi lấy làm xấu hổ với cô Ty vì tư cách của hắn, nhưng không sao ngăn cản được.
Ông Tư cất thêm một căn nhà đầy đủ tiện nghi cho người Mỹ thuê, bên trái là đường Lê Quý Đôn có kho hàng của Mỹ, phía sau lưng nhà ông là đường Nguyễn Huỳnh Đức, bên hong phải là con hẻm cụt rất hẹp, chỉ có xe gắn máy hay xe đạp mới vào lọt, trong hẻm không tới 10 căn nhà. Căn phòng ông cho hắn thuê cửa trổ ra con hẻm cụt đó. Phòng chỉ có 1 cái cửa duy nhất không có cửa sổ, ngoài cái giường đơn kê sát vách, 1 cái bàn 2 cái ghế, 1 cái lò bằng dầu, phòng tắm thì tuốt ngoài gần mấy cái mã đá ong , phòng vệ sinh thì đi chung với chủ nhà. Từ cửa nhìn qua là hong của một cơ sở người Tàu có vợ Việt, chị tên Minh.
Từ phòng trọ đến chổ "chị em ta" không quá 300 m, đi làm về hắn thường la cà qua đó trước ít khi về thẳng nhà. Dù hắn cố che đậy cách mấy, cũng không thể che đậy được cái tánh ăn chơi đàng điếm của mình, khi có gái, có rượu là hắn quên tất cả. Những lần cãi vả, lời nhục mạ của hắn lọt tới tai chị Minh. Một lần thấy tôi một mình chị lân la đến làm quen. Lúc nắm tay tôi, thấy tay trần trụi không đeo nhẫn chị mới hỏi:
-Sao em không đeo nhẫn?
-Em đâu có phải vợ chính thức đâu mà có nhẫn!
Có lẽ cùng phận gái như nhau nên chị cảm thông, chị mới cỗi chiếc nhẫn vàng 18 chị đang đeo, thương hại nhìn tôi, cầm tay tôi chị vừa đeo chiếc nhẫn vào ngón tay vừa nói một câu đầy ý nghĩa:
-Nhẫn là nhẫn nhục! Vàng thật không sợ lửa! Không ai khổ hoài đâu em! Em hãy nhẫn nhục mà đợi thời cơ!
Chị Minh đi rồi, nhìn chiếc nhẫn vàng trên ngón tay mình mà bùi ngùi với hai chữ "nhẫn nhục ". Sau này, dù tôi có nhiều nhẫn đủ loại kim cương đắc tiền, nhưng chẳng sánh bằng chiếc nhẫn vô giá của chị Minh, tôi giữ nó như môt kỷ vật và nhớ mãi lời nói của chị.
Gần lối xóm có Xệ, Phát người Nam, Vũ Thúc Hoàn người Bắc, 3 đứa hay đến chơi. Nhà Phát ở đường Nguyễn Huỳnh Đức gần nhà chị Minh, Hoàn ở số 8 Lê Quý Đôn, gương mặt Hoàn bị trái lúc nhỏ nên rỗ đầy trên mặt, là con trai duy nhất vì thế ba mẹ Hoàn rất sợ hắn rủ rê bỏ học, nên mẹ Hoàn hay đến nhà tìm. Bộ ba Hoàn, Phát, Xệ hay tu tập nơi phòng trọ của tôi đàn hát, Xệ thọ giáo học đàn với Hoàn trước.
Phát
Trong lúc buồn chán tuyệt vọng, khi không có con bên cạnh, tôi cần bám một cái gì để cho tinh thần yên ổn. Tại sao mình không nhờ tiếng đàn để xoa dịu nỗi đau chất chứa. Tôi hy sinh bộ móng tay, cắt ngắn cho dễ bấm dây, mấy đầu ngón tay bị chai rồi dần dần quen đi. Tiếng đàn như dòng suối mát, tưới xuống ngọn lửa hận đang cháy ngầm trong tim, nhờ tiếng đàn thay cho tiếng lòng mình mà thở than cho số kiếp.
Từ hôm ấy, ngày như đêm, con hẻm nhỏ vang lên những tiếng đàn lạc nhịp, thế mà hàng xóm không ai phàn nàn. Sau mấy tháng, tôi đã biết dấu thăng, dấu giảm, biết xem nốt nhạc tự đàn lấy. Hắn để yên cho tôi học, đôi khi còn hoạ đàn chung. Tuy cùng đàn bản Diễm Xưa mà lại xót xa thay, bởi chẳng cùng chung một nhịp điệu.
So dây phím lạc tơ chùng
Chẳng chung nhịp điệu chẳng cùng dòng trôi
Cung thương em lỡ trao người
Còn đây cung oán ngậm ngùi thở than...
Cũng bởi hắn sống trong mê lộ, rượu và gái làm u mê trí tuệ mất rồi. Hắn nào hiểu vì sao tôi học đàn? và càng không biết bản nhạc kỷ niệm của tôi với người tình. Tai hắn "điếc" nên không nghe cái "cung oán" bi thảm hờn căm, mắt hắn "mù" nên không thấy cái "cung thương" tôi đã dành cho người khác.
So dây lần cuối nghẹn ngào
Cung thương bỗng đứt tình chào ta đi
Hoà theo cung điệu bỗng trầm, tôi mượn cung đàn mà thở than cho thân phận bọt bèo, thân chim lồng cá chậu, tiếc nuối một cuộc tình đã vỗ cánh bay xa... Như có một sự huyền diệu nào đó, tiếng tơ réo rắt nhặt khoan đưa tôi trở về khung trời hạnh phúc xưa. Mỗi khi đàn lại bài hát kỷ niệm, tôi cảm thấy anh đang quấn quít một bên, âm vang lời tạ từ còn đâu đây, mà dư hương đêm chăn gối mặn nồng còn in trên ngấn lệ.
Nhớ anh dạo mấy cung đàn
Tiếng tơ réo rắt lòng càng nhớ nhau
Sáng buồn nắng bỗng chao chao
Ôi hương người cũ biết bao ân tình!
Bỗng nhớ đến anh da diết, nhớ mùi da thịt nồng nàn không che đậy, những nụ hôn nóng bỏng kéo dài, những khát khao đam mê lôi cuốn, nhớ đêm đầu hẹn hò anh hát tặng tôi. Những đêm đơn lạnh thiếp đi trong cơn đói, ôm chiếc gối mà ngỡ là anh đang ấp ủ, tôi ngủ vùi với hình bóng của anh.Ôi nhớ quá những cánh hoa dù , nhớ đêm nào anh đàn và hát bản Con Đường Mang Tên Em để tặng tôi.
Trở lại chuyện hai chúng mình... Khi anh với em... vừa biết đam mê... Tình yêu tràn trề...
Đường mòn đêm vắng bước chân em nhớ tên...
Nghe tình làm vỡ buồng tim
Tay ôm chiếc gối môi tìm bờ môi
Dư hương người cũ xa rồi
Nghe lòng tiếc nhớ nghe đời quạnh hiu
Tôi sống trong mộng tưởng, sống với kỷ niệm mà cung đàn đã cho tôi những giây phút ấm lòng. Cơn mưa rào ngắn ngủi chỉ làm vườn hồng thêm khao khát, Tình Yêu mầu nhiệm chỉ làm tươi đôi chút cánh hoa sắp tàn trong khu vườn hiu quạnh. Giấc mơ hạnh phúc bỗng tan khi choàng tỉnh dậy thấy mình đang nằm bên kẻ "nội thù" .Ngọn lửa tình trong tôi bỗng tắt ngắm khi nghe mùi rượu nồng nặc với cơn mưa tình thô bạo!
Đêm nằm lòng nhớ càng sâu
Mà nghe cao ngất đỉnh sầu đau thương
Lệ nhoà qua mấy cung thương
Thấy ai bên cạnh chán chường từng đêm
Cánh hoa đồng nội tan tác... tôi nhờn gớm, tôi buông thả cho hắn hành hạ. Tôi nhẫn nhục chịu đựng trong hận tủi, dập vùi trên tột đỉnh đau thương!
Ta phải khóc... phải cười trong tủi nhục
Với kẻ thù ôm ấp chuyện gối chăn
Rồi một sớm bên lề ta ngã gục
Nhớ người tình ta hối hận ăn năn!
Cả đời hắn chỉ biết lường gạt và lợi dụng, như một trò đùa trên nỗi khổ của phụ nữ mà trong đó có tôi. Tôi phải sống, phải ăn, phải ngủ với kẻ "nội thù". Tôi thù ghét hắn rồi ghét lây những chàng trai đô thị, ghét bộ mặt sa hoa của Sàigòn mà phấn con cố che đậy, để dấu bớt cái bẩn thỉu xấu xa, cái hung tàn ở bên trong.
Vì người tôi ghét phấn son
Ghét đời đen bạn ghét con đường thành
Sàigòn trong tôi là hình ảnh sa đoạ, một xã hội nhơ bẩn, được ru ngủ bằng ánh đèn mầu vũ trường, bar rượu, bằng tờ đô la xanh, đỏ làm băng hoại nếp sống, một Sàigòn đã bị Mỹ hoá.
Sàigòn sa đoạ phong trần
Vũ trường bar rượu giết dần ước mơ
Sàigòn oằn oại loã lồ
Được người ru ngủ bằng tờ đô la
Bản nhạc Sàigòn đẹp lắm mà ngày nào còn bé tôi hay hát, bỗng trơ trẻn, loã lồ như con đường Trương Minh Ký, nó nhơ nhớp như con sông Thị Nghè ứ đọng rác rến hôi hám, đen đủa. Nó rùng rợn như tiếng con vật bị thọc tiết bên lò heo Chánh Hưng. Nó quằn quại rên rỉ như những cô gái bất hạnh bị bán mình trong xóm Mới, xóm ba Chuông...
Sàigòn xe ngựa dập dìu
Lượn trên hè phố "nàng Kiều" nhởn nhơ
Sàigòn phố thị bơ vơ
Giòng sông đen đủi bụi mờ mịt bay...
Với tôi hình ảnh đẹp Sàigòn nó chán chường như tình vợ chồng hờ tạm bợ, nó đắng ngắt như ly cà phê thiếu đường, và Sàigòn cũng như hắn có muôn mặt. Kìa đường Nguyễn Huệ, nọ nhà thờ Đức Bà, rồi Tự Do ... tràn ngập nam thanh, nữ tú, ngựa xe rộn rịp với cuộc sống trưởng giả hào nhoáng dư thừa. Phản ảnh là nạn nhân chiến cuộc cụt mất chân tay, những đứa trẻ gầy đét dơ bẩn, những người đàn bà rách rưới ốm đói, bế con chìa tay xin, như phụ hoạ tiếng hát của Khánh Ly trong ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn.
Mỉa mai hai chữ vợ chồng
Người trồng trái đắng trổ bông lưng giàn
Rừng chồi mọc lắm dây oan
Bên kia trái đắng chín vàng trên cây
Tôi như gã võ sĩ vừa bị đối phương đấm cho một cú bí hiểm nằm đo ván. Cái sự thật mà tôi nghi ngờ bấy lâu nay nó đang phơi bày trước mắt, cú sốc quá mạnh làm tôi hụt hẫng chới với. Cầm tờ hôn thú mà tay tôi run rẩy, mấy dòng chữ làm mắt tôi hoa lên. Ba cái tên bắt vần từ chữ "H".
Chồng tên : Đặng Văn Hội
Vợ tên: Trần Thị Hạnh
Con tên: Đặng Thị Huệ
Mẹ lầm chọn phải tấm chồng
Ăn lường chơi chạy bưởi bòng trăng hoa
Chọn lầm chồng của người ta
Bởi sông lạc hậu đẻ ra giống này
Trên pháp lý tôi đã bị loại ra ngoài, hắn đã cướp đoạt trắng trợn đứa con gái của tôi. Theo lời của Hà vợ Tư Xê thì Trần Thị Hạnh là con riêng của má kế thứ nhì, con ông lấy con bà. Tội bật cười như điên, bởi tưởng tượng gương mặt tái xanh của má, khi biết chàng rể quý "qua mặt" cái vù.
Chính người lừa dối điêu ngoa
Xem thường nhân nghĩa đã qua mặt rồi
Nhìn đây sự thật đau vùi
Đắng cay, oán hận trong tôi dâng tràn...
Tôi không có tánh ghen lồng lộng, mà điềm tỉnh đợi hắn về để hỏi cho ra lẻ. Đã lố giờ giới nghiêm mà hắn chưa thấy tâm dạng hắn đâu cả. Nhìn mâm cơm đang nguội lạnh mà cơn giận trong tôi đang ngùn ngụt cháy. Cái bụng tôi quặn đau chẳng biết là đói hay là đau vì tận mắt thấy sự lừa dối bằng giấy trắng, mực đen. Một sự thật phơi bày đến đau lòng!
Bụng quặn thắt vì đau hay vì đói
Bởi vì ai lừa dối quá phũ phàng
Từng dòng chữ chập chờn như con rối
Đau thật nhiều khi ai đó dối gian!
Nằm nghe tiếng mưa tạt trên vách, mưa qua dãy phố tối đen, mưa qua con hẻm buồn thao thức. Tiếng khua của xâu chìa khoá kéo theo cái lạnh của cơn mưa lùa vào. Hắn đã về, mệt mỏi sau cuộc chơi trác táng, đang mò mẫm trong bóng tối thay quần áo. Tôi nhìn lên đồng hồ kim chỉ 1 giờ khuya, không thể đợi đến sáng, tôi mở đèn hạch hỏi:
-Có phải Trần Thị Hạnh là vợ của anh phải không?
Hắn giựt mình biến sắc tỉnh rượu ngay:
-Em có bằng chứng đâu mà dám vu oan cho tôi?
Tôi thò tay lấy dưới gối tờ hôn thú chìa ra trước mặt hắn:
-Bằng chứng là tờ hôn thú này đây! Dấu kỷ như mèo dấu cứt! Anh tưởng dấu trong xe là chắc ăn lắm hả? Còn cướp cả con tôi để tên nó vào hôn thú! Thì ra tôi chỉ là con ở không công! Cái mặt nạ đã rớt rồi anh còn gì để bào chửa! Phen này cho má tôi sáng mắt ra!
Biết đã lộ tẩy, hắn chẳng chối nữa:
-Ừ! Hạnh là vợ tôi! Nó phản bội bỏ đi rồi! Trả lại tờ hôn thú cho tôi!
Hắn chồm tới giựt, tôi vất vào mặt hắn phỉ nhổ:
-Ai thèm giữ cái của nợ này làm gì! Chỉ có má tôi thật thà quê dốt mới tin anh! Chứ tôi thừa biết anh có vợ từ khuya rồi! Tôi chỉ muốn nhìn thấy bằng giấy trắng mực đen để anh không chối nữa! Tờ hôn thú này đã tự tố cáo anh chỉ là "thằng điếm" lừa gạt.
Hắn cười khinh khỉnh:
-Dù sao cô cũng lỡ có con với tôi rồi! Có muốn bỏ cũng hỗng được!
Tôi nguyền rủa:
-Cũng vì anh mà tôi hận má tôi! Anh khôn ngoan sao không dùng trí óc vào những việc có ích cho đời! Lại xảo quyệt lường gạt chi bà mẹ quê! Thì ra 6 năm nay anh lừa dối! Chắc anh hãnh diện vì có nhiều con rơi con rớt!
Bị tôi mắng nhiếc hắn nổi cáu:
-À! Cô ngon dám chửi tôi phải không? Thằng này ăn hỗng được cũng khuấy cho hôi! Tôi lấy hết giấy tờ xem cô đi đâu cho biết!
Hắn nhảy lại chụp cái bóp của tôi, trì kéo làm đồ đạc đổ xuống. Lấy lại giấy tờ, tiền bạc , hắn vất cái bóp xuống đất cười ngạo mạn thách:
-Có gan thì đi thử coi!Hỗng có giấy tờ có nước nằm bót rục xương!
Trong thời buổi chiến tranh mất an ninh, nhiều đặc công nằm vùng, sự kiểm soát dân bằng tờ căn cước và tờ khai gia đình. Hắn nắm lấy căn cước là nắm lấy "sinh mạng" của tôi. Biết mình yếu thế tôi chỉ biết mắng:
-Thằng lùn mã tử mất dạy!Chỉ có tài ăn hiếp đàn bà con gái!Anh chống mắt mà coi tôi hỗng chịu thua đâu!
Hắn cười ngạo nghễ:
-Cô hỗng chịu thua thì làm gì được tôi?
Biết mình không cãi nỗi hắn, có nguyền rủa con người tán tận lương tâm cũng vô ích. Dù đã thu hết giấy tờ, tiền bạc mà hắn vẫn chưa yên tâm, lại đến nhà má Liễu nhờ bà làm bùa giữ tôi lại. Nhìn hắn sụp lạy cầu xin, bà đồng lên tiếng:
-Cậu chủ này tánh tình gian xảo! Lúc hoạn nạn thì lạy lục cầu xin! Lúc hết nạn thì coi trời Phật không ra gì! Cầu ta thì ta thương tình mà cứu tạm thời thôi! Cậu chủ không thể giữ nữ chủ này đâu! Thiên cơ bất khả lậu! Ta chỉ cho biết sau này mỗi người mỗi nơi! Cậu chủ này ăn ở thất đức! Đứa con gái chỉ nhờ vào đức của nữ chủ mà thôi!
Bị người đồng nói trúng tim đen, nên hắn cúi đầu làm thinh. Lời đoán ấy đã cho tôi một "hy vọng". Nghe thế hắn càng kiểm soát tôi gắt gao hơn, chỉ thiếu là chưa bị "xiềng" mà thôi. Từ hôm đó hắn thay đổi "chiến lược", về Bà Rịa mang con lên, bớt đi đêm, chở tôi với con đi phố, đại nhạc hội, ciné... Lúc thì rạp Quốc Thanh, khi Nguyễn Văn Hảo, Đại Nam, Thanh Bình... thời điểm đó có ban kịch Dân Nam của Tuý Hoa-Anh Lân với nữ hoàng kích động Tuý Phượng, phụ diễn tân nhạc với tiếng hát mến chuộng của ca sĩ Minh Hiếu, Thanh Thuý... về hài hước thì có Trần Văn Trạch, Tùng Lâm, Xuân Phát, Khả Năng, Phi Thoàn... sau này mới có thêm Thanh Việt. Nhờ hắn dựa hơi băng đảng Quốc Thanh, nên tôi luôn được ngồi ghế đầu.
Hắn chìu chuộng để chứng tỏ hắn sửa đổi, để trở thành người chồng tốt, hứa sẽ không lăng nhăng nữa, đã đến lúc phải tu tỉnh quay về với bổn phận, cũng chính là muốn tôi bỏ qua cái hôn thú kia. Liễu ghé thăm , thấy tôi buồn rười rượi lại ốm xanh hơn trước nên mới khuyên:
-Chị phải lo thân của chị! Tui nói thiệt tui ghét cái tánh ba xạo của ảnh! Hông thôi chị lên trong coi dùm tôi tiệm cà phê! Vừa có tiền vừa đỡ buồn!
Thấy tôi do dự, Liễu thuyết phục:
-Thằng Châu nó dạy chị một chút là biết liền! Có mướn người phụ với chị! Chỉ bán thức ăn nhẹ với kem và cà phê! Bà xã tui thì kẹt cái nhà bên kia! Tụi nhỏ đi học về hỗng ai lo! Có chị trong nhà vẫn tốt hơn!Tui lúc nào cũng quý mến chị! Chị lo buồn chỉ thiệt thân mình thôi!
Nghe Liễu đề nghị có lý, phải có việc làm để quên, có tiền lo cho con càng tốt, chứ mình cứ than thân trách phận, buồn rầu miết càng làm con người hư hao chẳng ích lợi gì. Liễu cũng hai ba vợ, nhưng được cái là công khai không dấu bà nào, ba má Liễu thì không hạp với con dâu lớn, bảo là vợ Liễu làm ăn không lương thiện? Không biết Liễu nói gì mà hắn bằng lòng cho tôi đi, còn hứa sẽ phụ tôi trông coi tiệm. Tôi ngạc nhiên thấy hắn tu tỉnh làm ăn, một việc mà tôi chưa bao giờ ngờ tới.
Quán Hồng em bán cà phê
Khách thường ghé quan khen chê lắm điều
Hẻm này có lắm nàng "Kiều"
Làm nghề bán xác dập diều bướm ong
Dân Sàigòn không ai lạ gì con đường Trương Minh Ký, nằm gần phi trường Tân Sơn Nhất, nơi có nhiều lính Mỹ ra vào, đang trong thời kỳ Đồng Minh tham chiến gồm: Hoa Kỳ, Anh, Úc Đại Lợi, Đại Hàn, Phi Luật Tân...vài nước khác chỉ có dân sự không có quân đội. Sự hiện diện của người nước ngoài đã làm cuộc sống miền Nam đảo lộn, đã khai sanh những nghề buôn bán chợ đen, hàng lậu, vũ trường, bar rượu, ổ mãi dâm... và cái tên "Sàigòn tea" được khai sanh từ ngày có bóng người GI.
Phố khua hẻm vắng mưa lầy
Đường Trương Minh Ký đèn gầy xanh xao
Bên kia hiu hắt mái lầu
Bên nay tiệm phở lối vào quán kem
Quán Hồng là căn nhà hai tầng, tầng trên để ở, tầng dưới mở quán. Bề ngang của quán rất hẹp khoảng gần bốn thước, chỉ được cái chiều dài. Tôi không nhớ hẻm số mấy, chỉ nhớ ngài đầu đường Trương Minh Ký là tiệm phở Huỳnh Tín. Khách gọi tên tôi theo tên của quán.
Các cô thường ghé quán Hồng
Phấn son chưng diện theo dòng nguyệt hoa
Trao thân đổi lấy đô la
Của chàng lính trẻ xa nhà quanh năm
Quán Hồng cũng là nơi các cô bán phấn buôn hương ghé lại giải lao, nơi mấy đứa tụ tập dắt mối, chúng lập phe nhóm. Chỉ là những đứa trẻ hỉ mũi chưa sạch, đáng lẽ ngồi cầm bút trong ghế nhà trường, lại lăn lốc vào chốn bụi đời làm cái nghề "dắt mối". Chúng học được dăm ba tiếng "Mỹ bồi" tự mưu sinh trong chốn ăn chơi truỵ lạc, ăn chia với chủ động. Bây giờ tôi mới bở lẻ ra vì sao hắn thích khu Trương Minh Ký, thì ra đúng cái môi trường nghề nghiệp của hắn.
Bé thơ dắt mối kiếm tiền
Lầu xanh khách ghé đi tìm cuộc vui
Trong hẻm có rất nhiều ổ mại dâm trá hình, được sự bảo vệ của băng đảng và nhân viên công lực ăn chia. Nạn nhân là những cô gái quê lên tỉnh tìm sinh kế bị bọn ma cô dụ dỗ bán vào lầu xanh, bị nhốt và bị hành hạ cho đến khi chịu tiếp khách. Vì chiến tranh đưa đẩy, các cô gái đáng thương ấy sa vào vòng truỵ lạc lúc nào không hay, bị canh giữ không sao trốn thoát được, lỡ sa chân hành nghề "không vốn". Cái tên Thắm, tên Lài, tên Lụa quê mùa mộc mạc được đổi bằng những cái tên thật kêu như: Kiều Thu, Ngọc Hương, Diễm Thuý... cái tên đẹp mà cuộc đời không còn đẹp nữa. Các cô nhập thật lẹ vào cuộc sống sa đoạ! Lỗi này do họ hay do chiến tranh? Hay do xã hội thối nát đã tạo ra những "quái thai" này.
Loạn ly em bỏ làng quê
Đi tìm cơm áo ê chề đời hoa
Rơi vào tay bọn tú bà
Bị người hành hạ khảo tra tơi bời...
Mưu mô của mấy bà tú bà là sắm sửa quần áo, son phấn để các cô chưn diện, đến khi trả lương thì tính giá "cắt cổ ". Cho nên bao nhiêu tiền bán xác đều vô trọn hầu bao của chủ động. Hằng ngày tôi giao tiếp với những người con gái quê hành nghề mãi dâm, và chứng kiến cái mặt trái thối tha đó.
Đêm đêm thành gái làng chơi
Bán đi xác thịt cho người mua vui
Tú bà bán máu quen rồi
Lầu xanh em bán cuộc đời thơ ngây
Vợ Liễu còn một căn nhà ở hẻm kế bên và thường trực ở bên đó. Một hôm có dịp cần phải qua gặp vợ Liễu, khi nhìn thấy mấy cô cặp kè mấy anh chàng lính Mỹ bước vào phòng phía sau. Thì ra vợ Liễu làm nghề "tú bà", bây giờ thì tôi mới hiểu câu nói úp mở của ba má Liễu khi đề cập đến người dâu này. Hèn chi vợ Liễu giầu ngang hong, sắm 2 cái nhà cùng một lúc. Liễu là Cảnh Sát Tân Bình nên bao che và chịu chi tiền nên không ai bắt bớ.
Còn hắn lại càng thích vì khu này có đất dụng võ, đúng cái môi trường nghề nghiệp của hắn. Hắn ăn dầm nằm dề bên động của vợ Liễu, bỏ mặt tôi một mình bên quán Hồng và lơi bớt vòng kiểm soát. Tôi làm cô hàng cà phê bất đắc dĩ, vùi đầu trong công việc, không còn thì giờ nghĩ đến hắn nữa.
Rất nhiều lính Mỹ ghé quán tìm gái, đôi khi tưởng là quán cà phê trá hình, nên thường hay bị chọn nhằm. Nếu... có mắt quan sát, ta sẽ nhận ra con nhà lành, hay gái làng chơi, bởi cách phục sức và cử chỉ của họ. Khi chiều tôi vừa trông thấy một cô gái bị áp giải vào căn nhà bên cạnh quán, gương mặt còn rất trẻ, cách phục sức như từ dưới quê lên. Cô vùng vẫy nhưng không thoát khỏi đôi cánh tay cứng như thép của tên du đảng, miệng cô gái bị bịt cứng nên tiếng kêu cứu không thể thoát ra. Bóng cô gái khuất sau cánh cửa, như cuộc đời của cô cũng vĩnh viễn chết sau làn cửa khép đó.
Thoáng nghe tiếng khóc nhà sau
Vẳng trong đêm vắng nghẹn ngào thở than
Phố khuya hẻm vắng, đêm tàn
Tiếng ai nức nở bàng hoàng tình quê
Có những đêm tới giờ đóng cửa quán, hắn quên không tới rước. sau một ngày mệt nhọc, tôi vẫn không ngủ được khi vẳng nghe tiếng khóc của cô gái trong lầu xanh vẳng trong đêm, nghe rên rỉ đau thương khiến phố khuya cũng bàng hoàng thao thức, mà mọi người và cả tôi đều tàn nhẫn quay lưng...
(Xin đọc tiếp Định Mệnh 3
Tết Mậu Thân)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét