Bút Ký: ĐỊNH MỆNH
Tác giả: Thanh Hiền - Dị Nhơn
(C) Copyright 2004 by author
All Rights Reserved
Tác giả giữ bản quyền
All Rights Reserved
Tác giả giữ bản quyền
Xuất bản 2004
Định Mệnh
Thay lời tựa
Rồi sẽ là những ngày nhàn hạ hoặc là bận rộn không chừng. Trời hôm nay đã vàng thu. Một chút mưa và lạnh. Đủ cho lòng quạnh hiu, và gợi nhớ những thân tình. Anh nhớ Thanh Hiền với ngôi nhà khang trang ở Orlando. Nhớ bức tranh sơn dầu với cụm mây dang dở qua đêm. Và sáng nay anh nghe như thấy tiếng sóng biển Bà Rịa-Vũng Tàu. Hãy vui dùm anh nhé, với quê hương mà anh chưa có lần hội ngộ. Nhưng sẽ với em, là những tháng ngày êm ả dịu dàng thắm thiết tình người, tình quê.
Hiền thân, rồi sẽ có một ngày anh ghé thăm em tại quê nhà. Anh rất yêu sự thuần hậu ngoan hiền nơi em. Và những dòng thơ em chung thuỷ. Hãy giữ gìn sức khoẻ em nhé. Và giữ liên lạc với anh như em đã hứa (anh rất cảm động vì được em thông báo thường xuyên những thay đổi địa chỉ, đi xa, và lúc em đang xuống tinh thần khi ở nhà thương canh chừng con gái). Đời sống bây giờ thấy hiếm những người còn giữ được trong lòng những tình nghĩa như em, thế đó.
Thanh Hiền thân, kỷ niệm mình có nhau không nhiều, nhưng tình thân thương chỉ tăng chứ không giảm xúc. Anh rất vui vẻ chuyên này, và tin rằng tình mình sẽ đẹp như trăng sao, không vướng bận sân si đời thường. Phải thế không em? Anh vẫn viết rất đều, và hẳn là em cũng thế? Anh vẫn chờ đọc hồi ký của em đấy cưng ạ. (Hãy viết cho con gái những dòng thật đẹp nhé em!) Và thằng rể nữa (không chừng tại con bé đẹp quá, và hiền nữa nên bị trời đất ghen hẳn thôi. Hồng nhan bạc mệnh mà em).
Anh nhìn được nỗi buồn thăm thẳm nơi em ở người và ở đời, qua thơ. Những sửa chửa gợi ý này với anh em mình là một chút chia sẻ có giá trị của một kỷ niệm văn chương. Em đồng ý hay không, chẳng là vấn đề. Chính yếu là những quan niệm thường đã có về em.
Ráng trực diện nỗi buồn và vận dụng đưa nghịch cảnh vào sáng tác nghe em. Mong em có thể giữ mãi cái tâm bình lặng trước sóng đời ô trọc trọc này.
Tình thân
Hà Huyền Chi
Lời Trần Tình
Khi viết cuốn bút ký này nửa chừng, thì tôi phải tạm ngưng vì nuôi bệnh cho con. Tập bút ký bị lãng quên chừng ngủ yên với thời gian vô tình trôi qua, mà dĩ vãng cứ dần xa theo số tuổi đời, nếu tôi không lụt lọi lại cái trí nhớ ngay từ bây giờ, e rằng tháng năm sẽ phôi phai dần, chẳng còn minh mẫn mà viết cho đúng chính xác. Nguyên nhân là lời ước nguyện của con phút cuối cùng. Và lời khuyến khích của thầy Bổn sư, của nhà thơ Hà Huyền Chi, của người bạn đời. Bỏ bản thảo cũ, tôi phải viết lại từ đầu, có lúc tôi phải tạm ngưng vì quá đau lòng khi nhớ lại dĩ vãng , miệt mài đã hơn 6 năm qua.
Tôi xin mượn lời mở đầu này tri ân Mỹ Quốc, quê hương thứ hai đã bao bọc những người tỵ nạn Việt Nam trong giai đoạn đen tối nhất, đã cho tôi một cơ hội tiến thân và sự tự do, sự bình đẳng. Xin tri ân những tấm lòng nhân ái, và tình thương nhân loại của thế giới tự do.
Con xin trân trọng tri ân Bổn Sư Hoà Thượng Thích Minh Tâm, viện chủ chùa Khánh Anh (Pháp) đã khai sáng tâm con với giáo lý Phật đà và trí tuệ con có hôm nay
Con xin cảm ơn Cậu, người cha mến yêu mà tình thương rộng như biển lớn, cha không nhìn được đứa con gái, nối gót tổ tiên đi xây dựng chùa, đã có chút tên tuổi trên văn đàn.
Xin cảm ơn má, má đã cho con cái xác vay mượn này, nhưng cũng đã làm tổn thương con không ít.
Xin cảm ơn con, đứa con hồng nhan bạc mệnh. Con đã cho tôi 37 năm hạnh phúc được làm mẹ. Con hãy thanh thản đi về cái cõi xưa nào đó mà con thường nói. Vì đã có Thanh Tuyền thay thế cho con, một việc mà con lo lắng khi con sắp bỏ cõi tạm này.
Xin trân trọng tri ân Sanford Lasner, người ân nhân cũng là người bạn tôi, bạn đạo, một thiện hữu tri thức đã cùng tôi song hành trên con đường đời, đường đạo, đã cùng tôi tát cạn biển Đông, đã an ủi, khuyến khích, ủng hộ khi tôi bị trù dập, bị phỉ báng, anh luôn tôn trọng và tin tưởng nơi tôi, những gì tôi đạt được hôm nay, một phần do anh khích lệ. Tôi nguyền suốt đời theo anh để trả chút ân tái tạo.
Định Mệnh trớ trêu đã đưa tôi đến một nơi mà tôi không định đến. Dù bao nghịch duyên vây quanh, những oan khiên gán ghép hận thù. Xin trả lại cho người đời còn quá nhiều si mê lầm lạc. Tại sao ta không chọn cho mình một hướng đi riêng, mà cứ phải dẫm lên con đường cũ? Phật pháp đã giúp tôi một con đường đi đích thực.
Thu lại về mang niềm tiếc thương khắc khoải. Mùa Thu Florida với những cơn bão kinh hoàng, và Thu năm ấy cơn bão đời đã vô tình bức lìa những chiếc lá xanh kia, bỏ lại cội già ngẩn ngơ tiếc nhớ. Thấm thoát đã 6 mùa Thu đi qua, cái mùa Thu thê thảm ấy tưởng chừng như mới hôm qua. Tôi đã hoàn tất tập bút ký
Định Mệnh vào năm giỗ thứ 6 của mẹ với con. Tôi đã mãn nguyện và có thể an tâm mà sống nốt cuộc đời còn lại.
Trong đau lòng, tôi vẫn phải can đảm mà tìm cho mình một lẻ sống, phải đối diện với cuộc đời đầy những bất công, lòng xấu xa, đố kỵ, nham hiểm của con người. Họ cấu xé nhau, họ giết chóc nhau, tranh danh, đoạt lợi, để rồi còn lại được những gì khi buông tay nhắm mắt?
Tôi không dám lên án, hay chỉ trích bậc làm cha mẹ, hay đã phá nếp sống cũ, mà chỉ muốn nói lên những chứng tích đau thương , sự tàn phá của chiến tranh, và thân phận hẩm hiu, u tối của người phụ nữ Viêt Nam trong bối cảnh đất nước. Tôi đã dùng nét chấm phá của tranh, hơi thở của thơ mà trang trải lòng mình.
Đặt ra nền tảng gia đình, đạo lý quá khắc khe với người phụ nữ, nhưng lại dung túng cho người đàn ông chẳng có sĩ diện. Cái luân lý bảo thủ , truyền thống lạc hậu là địa ngục vô hình đã đày đoạ hàng triệu... triệu phụ nữ phải cam phận trong cảnh nô lệ . Là nạn nhân trong kiếp chồng chúa, vợ tôi. Nạn đa thê, ê chề tủi nhục trong kiếp chồng chung. Từ trong gia đình đến ngoài xã hội, người phụ nữ luôn bị thua thiệt, bị đàn áp và đối xử bất công.
Lời trần tình không thể nói hết những nỗi bất hạnh, thân phận bọt bèo của người phụ nữ trong thời chiến. Tôi không phát hoạ, không hư cấu ra những nhân vật, mà đó là những người dù nhiều hay ít đã có liên hệ, đã đi qua đời tôi, phần nhiều là tên thật.
Xin cảm tạ anh Huỳnh Văn Tỏ- Nguyễn Văn Bé-, anh Lê Bá Thắng về những tài liệu. Cảm tạ Nguyễn Thị Nhàn- Bùi Khánh Nguyên, đã giúp dịch một phần tiếng Mỹ.
Con đường nào rồi cũng đi về một phía, ta mệt mỏi dừng chân , ngoảnh lại nhìn chặng đường mình đã đi qua. Thật là gian nan, gai góc nhiêu khê. Vinh quang cũng lắm, nhưng cũng không ít gian truân, khổ ải. Còn chăng chỉ là tro tàn dĩ vãng, mà kỷ niệm mãi mãi không phai mờ. Dù đời đã cho tôi quá nhiều gia vị đắng, nhưng đời cũng ưu ái cho tôi gia vị ngọt bùi, như mưa với nắng để dung hoà cho đời không đơn điệu.
Đời là bi trường kịch với hỉ, nộ, ái, ố, mà chúng ta là một diễn viên trên sân khấu với vở tuồng chẳng có lớp lang. Nếu như không có những đớn đau, nếu không có những nghịch cảnh trái ngang, thì tôi đâu có những dòng thơ xuất phát từ con tim rạn vỡ này. Xin trân trọng mời quý độc giả, mời các bạn hữu dấn bước phiêu lưu vào con đường ĐỊNH MỆNH...
Thanh Hiền
Bà Rịa - Thu 2004
Long Điền quê tôi
Ai về An Ngãi, Chân Tiên
Ghé qua Bà Rịa Long Điền quê tôi
Nhớ ai trông đứng trông ngồi
Qua cầu Thủ Lựu bồi hồi nhớ anh
Long Điền thuộc về tỉnh Phước Tuy, nằm trên quốc lộ 15 và liên tỉnh 23 đi Đất Đỏ, Xuyên Mộc. Trên đường từ Bà Rịa gần đến sân banh Long Điền bên phía trái là miễu Ông Hổ , bên phải là miễu bà Long An giáp ranh đất của nội. Đình thần Long Điền tên cũ là đình thần Long Phụng, xây dựng từ thời vua Thiệu Trị nhà Nguyễn (1841-1847), trên nền thành cổ, được đoán là đồn thu thuế năm xưa.
Không xa đình thần là di tích Bàu Thành còn gọi là Bàu Voi , một hồ nước thiên nhiên rất lớn đã có từ thế kỷ IX. Tương truyền cách nay 350 năm vua nước Chân Lạp , dùng nơi này để cho voi, ngựa tắm. (Trong khi khai quật, các nhà khảo cổ tìm được rất nhiều văn hoá Óc Eo của Phù Nam thời xa xưa) .
Dân địa phương Long Điền còn lưu lại hai câu ca dao nói về di tích lịch sử này.
Bao giờ Bưng Bạc hết sình
Bàu Thành hết nước thì mình hết thương
Nhà nội tôi nằm phía sau sân banh Long Điền. Nghĩa trang gia đình giáp ranh với miễu bà Long An. Đất hương quả chạy dài theo lối nghĩa trang. Chia hai phần, nửa về bác Ba, nửa còn lại về cậu(Cha) . Tôi chỉ biết tên ông cố là Nguyễn Văn Kỳ, ông nội tên Nguyễn Văn Đẩu, bà nội tên Bùi thị Huy. Ông nội thuộc dòng lớn, bởi có hai bà cố. Ông nội còn được 3 người con: bác Ba, cậu tôi thứ Bảy, và cô Chín Huyện lấy chồng miệt Phước Hải. Bác Ba mất sớm còn lại 3 người con là: Anh Ba Tam, chị Năm Bỉnh, anh Bảy Lương. Trong thân tộc có người tập kết ra Bắc.
Căn nhà từ đường nền đất với mái ngói âm dương, trước nhà có ao rau muống xanh um mát mắt, mặt tiền nhìn ra cánh đồng lúa của phụ ấm, được chia từng phần cho các con cháu. Thêm phần ruộng muối ngoài mấy nhánh sông. Về phía bên phải là nhà cô Mười làm cơm rượu, người con trai là ông Hai Riều, người em tên Biết. Con ông Biết cất cái biệt thự phía sau rất lớn và mở công ty Đông Nam khá thành công. Lô đất kế của chú Nguyễn Đình Chơn, mới tới đất chú Tư Chà, hàng xóm phần nhiều là trong thân tộc.
Trong gia đình chúng tôi gọi cha mẹ bằng cậu má . Trong khi ấy thì cậu gọi ông bà nội là cậu mợ . Còn trong xóm tụi nhỏ thì gọi là tía má . Thuở nhỏ tôi lấy làm thắc mắc bởi cách xưng hô quá khác biệt với người trong xóm. Khi muốn tìm hiểu về gia phả thì các bác, cậu đều qua đời. Còn má thì mù tịt nguồn gốc bên chồng, các anh lớn không ai quan tâm, thành ra tôi cứ mãi băn khoăn về nguồn cội của mình.
Sau gần nửa thế kỷ, tôi may mắn tìm được tài liệu về gia phả. dù không được đầy đủ lắm nhưng cũng biết được một ít về nguồn gốc của mình. Tài liệu này do cô Tư Ngọc Nữ cung cấp,cô vai em nhưng lớn hơn tôi gần 20 tuổi. Cô là con của chú Nguyễn Đình Chơn.
Theo gia phả, ông tổ tôi vốn nhà giáo, người miền Bắc vào Nam lập nghiệp tại Long Điền vào thời chúa Nguyễn từ thời di dân cùng thời với Bà Rịa. Di sản còn lưu giữ được là tấm bài vị hơn 300 năm, hiện đang thờ tại nhà anh Hai Minh, là con chú Ba Thăng tại Long Điền. Năm 1999, tôi có dịp ghé qua thắp hương tổ tiên.
Nhờ nguồn gốc tổ tiên là nhà giáo, nên các bác, các chú và cậu tôi khá về chữ nho, nhất là chú Hai Nguyễn Đình Chơn. Chú giỏi về bốc số, chú đoán được ngày chết và giờ chết cuả mình. Sáng sớm hôm đó chú gọi thiếm bảo pha cho bình trà, thiếm còn say ngủ nên cằn nhằn . Chú bảo chỉ làm phiền lần này nữa thôi. Chú nhắn kêu cô Tư Nữ về, cô có chồng sĩ quan bên Cao Đài , và gọi hết mấy chú bảo về gấp vì chú sắp đi. Có chú không tin nên không vội vả. Chú tắm gội , mặc đồ tang sẵn, chú hỏi mấy giờ rồi, mọi người muốn thử chú nên nói sai giờ,chú hừ một tiếng rồi chú ngồi thiền định, tức nhập định mà viên tịch, mấy chú về trể mới khóc lên, thì chú tỉnh lại. Chú bảo phải niệm Phật để chú đi vì đã tới giờ có người đến rước rồi.
Câu nói cuối cùng là chữ minh . Chú có 3 người con: chú Ba Cỏn, cô Tư Ngọc Nữ và chú Năm Hổ. Mỗi người con đều được chú đoán vận mệnh bằng một bài Đường thi.
Cậu tôi tên Nguyễn Văn Cẩn, nhưng mọi người hay gọi là chú Bảy Chẩn. Cậu sanh năm 1904 (Giáp Thìn), chiều cao khoảng 1 thước 70, để râu ba chòm. Diện mạo khôi ngô, không vai u thịt bắp như nhà nông mà dáng dấp thanh lịch như nhà nho. Tánh tình điềm đạm ôn hoà, có tài đặt câu hò đối đáp. Má lớn mất sớm khi sanh chị Hai Cấm, sau này gọi là chị Hai Điên. Má cô Tư Ngọc Nữ mới làm mai người cháu cho cậu, đó là má tôi. Tấm ảnh này là tấm ảnh căn cước duy nhất của cậu tôi .
Má tôi là vợ kế tên Đỗ Thị Lâu, sanh năm 1912 (Nhâm Tý), đứng thứ Sáu trong gia đình. Chiều cao khoảng 1 thước 50. Khá đẹp người, bàn chân thật nhỏ, gót lúc nào cũng đỏ như son. Má làm mụ vườn nên thờ bà mẹ sanh. Trang thờ nằm bên phải, má đở đẻ hầu như hết cho người trong xóm. Trước khi đi má lên van vái bà mẹ sanh được mẹ tròn con vuông , mà lần nào cũng được suông sẻ. Sau đó gia đình sản phụ đem dĩa trái cây đến cúng tạ lễ.
thân mẫu
Cậu tôi ít uống rượu, khi say thì hay cười đùa, móc tiền cho chúng tôi hết, vì thế chúng tôi rất thích cậu say. Cũng như phần đông đàn ông thời bấy giờ , cậu vẫn còn cái thú tiêu khiển của người xưa, nên tối ngày không quẩy rập gác chim cu thì cũng đá gà. Mấy con cu mồi không cho ăn gạo mà toàn cho ăn lúa nàng hương, để cu giữ tiếng gáy cho hay, cho chim uống nước mưa dự trử trong mấy cái khạp da bò. Gà nòi bác Bảy Chân nổi tiếng bên Long Hương, 1 là thắng, 2 là huề, chưa lần nào bị thua. Trồng cả đám nghệ sau mương để tẩm cho gà , dù nó có bươi trốc hết mấy luồng rau. Mổ lủng hết mấy liếp bánh tráng cũng không ai dám đập nó.
Quê ngoại miệt An Ngãi gần An Nhứt và Đất Đỏ. Má tôi phần đông như phụ nữ thời bấy giờ đều mù chữ. Vì tục lệ không được phạm huý , nên tôi không biết tên ông bà ngoại, chỉ biết ông ngoại họ Đỗ, bà ngoại họ Đào. Ông bà ngoại đều qua đời sớm. Người cậu thứ Tư cũng qua đời, chỉ còn mợ và 3 người con là :chị Ba Lùn, anh Tư Kia, và anh Bảy Cao. Mợ Tư hay kiên chữ tiền mà nói là tờn . Chị Ba Lùn, chẳng biết là tên thật hay là biệt danh? Cái tên chẳng hạp tí nào vì chị đô con, kệch cởm so với những thôn nữ khác. Tôi không biết chồng chị là ai? Chị hiếm muộn chỉ có 1 trai độc nhất tên Lì, vợ chồng Lì cũng hiếm muộn chỉ có mụn con gái.
dì Năm
Hò là con gái lớn của dì Mười, xin đẹp giống dì như đúc, Hò vô bưng rồi lấy chồng trong đó, cả hai đều tử trận, để lại đứa con trai mồ côi, đem về cho dì Mười nuôi. Ngươi con trai kế tên Lơ mang bệnh điếc nặng như dượng Mười, sau lấy vợ cũng cùng bệnh điếc, cả hai vợ chồng sống đùm bọc với Thành, mấy đứa kế là Kỉnh cũng mang bệnh điếc, và Chính, Luận.
dì Mười
Dì Năm lấy chồng họ Trang, người trai lớn là anh Hai Lê- Ba Đào-Tư Lựu- chị Năm Bạch, sáu Kiên chết lúc vô bưng, chị Bảy Xuyên, và 1 người trai út bị bắn chết khi đi chăn bò. Dì Bảy lấy chồng về Lò Vôi (Long Hải). Dì nghèo nhất trong số mấy chị em, chỉ có 3 cô con gái 1 cô chết lúc vô bưng. Dì chấp nối với dượng Tám Nhún, dì dượng làm rẩy trồng dưa hấu, cà, khoai... và nuôi bò.
Cậu Tám Cát kể như là con trai út, tôi nghe hình như cậu có thờ mấy em? Cậu được 4 trai là: Sâm-Lượng-Tám-Chín. Cậu cũng có cháu nội lấy chồng người Hoà Lan hay Nauy gì đó? Tôi có gặp một lần khi xuống nhà cậu. Về nghề nghiệp, dì Năm , má, dì Mười, chị Ba Lùn sống bằng nghề bánh tráng.
Ruộng muối Long Điền
Miệt An Ngãi 80% chuyên nghề làm bánh tráng và trồng rau, nghề nông. Giếng nước thì sâu thăm thẳm không thấy đáy, phải dùng cần trục để kéo nước. Dân Long Điền sống về nghề nông, ruộng muối, làm bún, lò gạch... Chị Ba Tam, chị Năm Bỉnh làm nghề vựa lúa, gia đình đều khá giả. Anh Ba Tam thích nghề nông hơn nghề gỏ đầu trẻ, anh thuê ruộng bên Long Hương để làm mùa, nên thường lên ở nhờ. Má hạp với chị Ba Tam hơn, không ưa vợ anh Bảy Lương, nên cấm chúng tôi chơi với đám con anh chị.
Dân địa phương Long Điền không nói được vần r như: chong dừng che dậm dạp, con heo dừng chạy da nghe dột dột, dượt chạy sợ đến dụng dời. (Trong rừng tre rậm rạp, con heo rừng chạy ra nghe rột rột, rượt chạy sợ đến rụng rời) Chúng tôi phần đông sanh tại Long Điền, lớn lên bên Long Hương (Bà Rịa), nên chúng tôi không bị ảnh hưởng tiếng nói của địa phương.
Theo người Nam, con đầu lòng bắt đầu từ thứ hai, đã có chị Hai Cấm, nên anh tôi dù là con đầu lòng của má, vẫn phải xếp theo thứ Ba . Tất cả ngày, giờ tháng , năm sanh của chúng tôi được cậu ghi cẩn thận vào cuốn Agenda 1941. Tính ra má sanh tất cả là mười lần, chỉ nuôi được 7.
Năm đói Ất Dậu
Lỡ sanh vào buổi chiến chinh
Làm thân con gái phận mình tả tơi
Lỡ nhìn thấy ánh sao rơi
Sanh nhằm thế kỷ hai mươi hao gầy
Năm 1945 (Ất Dậu) , là năm lịch sử của toàn thế giới, một biến cố lớn lao kết thúc Đệ Nhị Thế Chiến, đã giết hàng triệu nhân mạng.Ngày 20-4-1945, sinh nhật lần thứ 56 của Hitler nhằm lúc thành phố đã bị Liên Sô bao vây. Eva Braun đóng vai người tình của Hitler 12 năm qua. Đêm 28-4-1945, dưới sự chủ hôn của một nghị sĩ thành phố Wagner và Bộ Trưởng Đức Quốc Xã Goebbels. Hitler và Eva cử hàng lễ cưới ngắn gọn. Đám cưới như kiểu chạy tang, báo hiệu ngày tận cùng của tên độc tài.
Hitler và người tình Eva
Hai ngày sau Hitler và vợ là Eva Braun và một số cộng sự viên tự sát ngày 30-4-1945. trong đó có Goebbels cùng vợ tự sát theo, sau khi bắn chết 6 đứa con. Đức Quốc Xã đầu hàng ngày 8-5-1845.
Ngày 9-3-1945, quân Nhật đảo chánh lật đổ chánh quyền Pháp. Vùng Vũng Tàu như Gành Rái, bãi Dâu, núi Nhỏ tan nát bởi bom của Đồng Minh. Ngoài khơi những chiếc tàu chiến trúng đạn chảy đỏ trời. Chánh phủ Trần Trọng Kim ra đời.
Tổng Tống Mỹ Roosevelt tạ thế ngày 12-4-1945, người lên kế vị là ông Harry Truman. Một quân nhân Mỹ bị giết đầu tiên tại Việt Nam là Trung Tá A.Peter Dewey (Cơ Quan Tình Báo Trung Ương). Ngày 14-4-1945 cựu Hoàng Bảo Đại ban chiếu huỷ bỏ hết các hiệp định với người Pháp.
Ngày 27-7-1945, khối Đồng Minh đã gửi tối hậu thư yêu cầu Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện, nhưng Thủ Tướng Suzuki Kantaro đã không quan tâm. Theo lệnh của Tổng Thống Harry S. Truman, lúc 8: 45 (giờ Hiroshima) ngày 6 -8-1945, máy bay B.29 "Enola Gay" do Pall Warfied Tibbets , đã thả quả bom nguyên tử "Little Boy" xuống thành phố Hiroshima.
Tại thời điểm bị đánh bom, Hiroshima là thành phố quan trọng cả về mặt quân sự đóng sát gần bộ chỉ huy sư đoàn số 5, bộ chỉ huy tập đoàn quân số 2 của Thống Chế Nhật Hata Shunroku Tư Lệnh phòng thủ toàn phần Nam Nhật Bản. Hiroshima là căn cứ hậu cần nhỏ của Quân đội Nhật Bản.
Thành phố là trung tâm liên lạc, điểm tàng trử và lắp ráp cho Quân đội. Trung tâm thành phố có vài công trình bằng bê tông và các cấu trúc yếu hơn. Ngoài phạm vi trung tâm là khu vực dày đặc các cửa hiệu, nhà ở bằng gỗ. Số lượng nhỏ nhà máy công nghiệp nằm ở ngoại ô thành phố.
Theo lệnh của Tổng Thống Harry Truman, quả bom thứ nhất mang tên Little Boy. Hiroshima là mục tiêu ưu tiên ( số 2 là Kokura và mục tiêu dự bị là Nagasaki). Chiếc B.29. Enola Gay (đặt theo tên của mẹ Đại tá Tibbets) của phi đoàn 509 . Cơ trưởng là Đại Tá Pall Tibbets, xuất phát từ North Field, căn cứ Không Quân trên đảo Tinium ở Tây Thái Bình Dương, cách Nhật Bản khoảng 6 giờ bay.
Đại Uý William Sterling đưa quả bom "Little Boy" vào tình trạng sẵn sàng sau khi máy bay cất cánh, trợ tá của ông Moris R. Jeppson dỡ các thiết bị an toàn của quả bom 30 phút trước khi tới mục tiêu. Cuộc tấn công được thực hiện đúng theo kế hoạch.
Khoảng 1 giờ trước cuộc tấn công, người Nhật đã phát hiện bằng radar một số máy bay của Mỹ tiếp cận lãnh thổ phía Nam Nhật Bản. Báo động được phát ra, và việc phát thanh ngừng ở nhiều thành phố, bao gồm cả Hiroshima. Các máy bay tiếp cận bờ biển với cao độ rất lớn. Lúc 8 giờ sáng, trạm radar ở Hiroshima thấy số lượng máy bay không hơn 3 chiếc và bỏ lệnh sẵn sàng đánh chặn bằng Không Quân.
Ba chiếc máy bay bị phát hiện đó đều là B-29: Chiếc Enola Gay, chiếc The Great Artiste với các thiết bị đo đạc và một chiếc khác không tên (sau đó được đặt là Necessary Evil) là máy bay ghi hình. Cảnh báo ở mức trung bình trên sóng radio tới dân chúng rằng, nên trú ẩn nếu nhìn thấy các máy bay B-29. Họ cho rằng các máy bay là do thám chứ không có đột kích bằng Không Quân.
Chiếc Enola Gay xuất hiện trên bầu trời Hiroshima thả quả bom nguyên tử "Lettle Boy" . Quả bom rơi bởi trọng lượng với khoảng 60 kg Uranium 235 và đương lượng 13 Kilotan, đã phát nổ cách mặt đất khoảng 600 m. (vũ khí nguyên tử xử dụng U-235 bị coi là không có hiệu năng cao, chỉ có 1,38 % khối lượng chúng phân hạch). Ngay lập tức giết chết ngay 90.000 ngàn người. Bán kích bị tàn phá là 1.6 km và cháy trên diện tích 4,4 km vuông. Ước tính 90% nhà cửa ở Hiroshima bị huỷ diệt hoặc hư hại.
"Hầu hết những ngôi nhà trong thành phố đều nát vụn dưới sức ép của quả bom. Tất cả những người ở ngoài trời đều chết ngay lập tức, những cái xác bốc cháy và biến dạng. Theo ước tính khoảng 140.000 người dân Hiroshima đã chết.
Sau vụ nổ ở Hirishima, Tổng Thống Truman tuyên bố "Nếu bây giờ họ không chấp nhận điều kiện của chúng ta, họ sẽ gánh chịu cơn mưa tàn phá từ trên trời, những thứ chưa hề biết đến trên trái đất" .
Chính phủ Nhật Bản vẫn không phản ứng gì với tuyên bố Polsdam. Bộ trưởng Ngoại giao Xô Viết Vjacheslav Mihajlovich Mololov, ngày 5-8-1945 thông báo tới Tokyo về việc huỷ bỏ hiệp ước trung lập Xô Viết-Nhật Bản. Chỉ vài phút sau, nửa đêm ngày 9-8-1945 giờ Tokyo. Bộ binh, Thiết Giáp của Liên Sô mở cuộc tấn công đội quân Quan Đông ở Mãn Châu. Bốn giờ sau đó Tokyo không nhận được lời tuyên chiến của chính phủ Liên Sô. Giới quân sự cao cấp của Nhật Bản, với sự ủng hộ của Bộ Trưởng Chiến Tranh Anam Korechika, bắt đầu chuẩn bị ban hành lệnh thiết quân lực trong cả nước nhằm ngăn chận bất kỳ kẻ nào nỗ lực cho hoà bình.
Sáng ngày 9-8-1945, pháo đài bay B-29 Bock's Car, cơ trưởng là Thiếu Tá Charles W. Sweeney mang quả bom nguyên tử "Fat Man", với mục tiêu số 1 là Kokura, mục tiêu thứ 2 là Nagasaki.
Vào lúc 7 giờ 50 giờ Nhật Bản, báo động máy bay vang lên ở Nagasaki, nhưng sau đó báo yên lúc 8 giờ 30. Khi chỉ có 2 chiếc B-29 bay đến lúc 10 giờ 53, người Nhật cho rằng những máy bay do thám và không phát lệnh báo động nữa.
Lúc 11 giờ 01, vào phút cuối cùng, mây đứt quảng trên bầu trời Nagasaki. Trên chiếc Bock's Car được lệnh thả bom . Kermit Beahan, nhìn thấy sân vận động thành phố bằng mắt qua lớp mây mỏng. Quả bom "Fat Man" mang lối khoảng 6,4 kg Plutonium 239, được thả xuống thung lũng công nghiệp của thành phố. 43 giây sau nó nổ ở 469 mét cách mặt đất, ở giữa xưởng thép và vũ khí của Misubishi, ở xưởng thuỷ lợi của Misubishi-Urakami.
Vụ nổ có đương lượng 21 Kiloton, nhiệt độ cao nhất đạt được là 3.871 C (7.000 fahrenheit) và sức gió khoảng 1.000 km/giờ (624 mph). Bán kính của vụ nổ là 1.6 km, những đám cháy trải dài từ phía Bắc của thành phố cho đến 3,2 km về phía Nam.
Lúc bom nổ, có khoảng 200 ngàn người trong thành phố. Quả bom thả vội vàng đã nổ ở đoạn giữa hai mục tiêu chính, xưởng thép và vũ khí ở phía Bắc và xưởng thuỷ lôi ở phía Nam. Theo số ước tính 70.000 ngàn người trên tổng số 240.000 dân cư Nagasaki chết ngay và 60.000 người bị thương.
Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện ngày 15-8-1945. Và khối Đồng Minh ký vào văn kiện đầu hàng ngày 2-9-1945, chấm dứt thế chiến thứ 2. Đến tháng 12-1945, hàng ngàn người chết bởi vết thương, nhiễm độc phóng xạ . Con số tử vong ở Hiroshima trong năm 1945 lên 140.000 ngàn người. Trong thời gian từ 1950-1990, thống kê tính hàng trăm người chết hàng năm do nhiễm phóng xạ của hai quả bom nguyên tử.
Sự tàn phá kinh khủng tàn bạo nhất của bom nguyên tử . Đây cũng là lần đầu tiên 1 quả bom nguyên tử sử dụng trong thời chiến, và nước Nhật Bản là nước đầu tiên trên thế giới bị ném bom. Ngày Nhật Bản vỡ mộng làm bá chủ hoàn cầu. Nếu không chẳng biết quân Nhật Bản còn bành trướng đến đâu?
Đó là cái quả của Nhật Bản đã gieo nhân, đã khiến cho gần 2 triệu người miền Bắc Việt Nam bị chết đói.Nạn đói bắt đầu từ tháng 10-1944, kéo dài đến giữa năm 1945. Do chính sự vơ vét của phát xít Nhật và của thực dân Pháp, cộng thêm sự mất mùa, thiên tai. Vào tháng 9-1944, lụt vỡ đê La Vang (Hà Tỉnh), đê sông Cả (Nghệ An), ruộng lúa bị rầy phá hoại. Nhật thì cấm chuyển lúa từ miền Nam ra. Nạn đói diễn ra ở 32 tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ từ Quảng Trị trở ra. Bệnh dịch tả, bệnh dịch hoành hành. Làng La Cả (Hoài Đức),số người chết đói hơn 2.000 dân số 4.800 dân, có 147 gia đình chết không còn ai. Nạn chết đói trong 32 tỉnh thống kê không dưới 2 triệu người. Một năm kinh hoàng nhất trong lịch sử Việt Nam.
Ngày 18-8-1945, Nhật trao quyền hành lại cho Việt Nam. Đảng Việt Minh cướp chính quyền ngày 19-8-1945. Ngày 29-8-1945, Trần Huy Liệu vào cố đô Huế ép buộc vua Bảo Đại thoái vị, tôn ngài là cố vấn Vĩnh Thuỵ. Vào lúc 2 giờ trưa ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập tại vườn hoa Ba Đình.
Ngày 1-9-1945, chánh phủ Nam Kỳ tự trị ra đời. Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh là Thủ Tướng đầu tiên của miền Nam. Chiến tranh Đông Dương bùng nổ ngày 19-12-1946. Quân Pháp đổ bộ vào Hà Nội vào tháng 12-1946. D'argenlieu được bổ nhiệm làm Cao Uỷ và Tướng Valuy được cử làm Tổng Tư Lệnh đoàn quân viễn chinh. Ngày 1-10-1947, Hội Đồng Nội Các đồng thanh cử Thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân lập chánh phủ lâm thời. Năm 1948, cựu Hoàng Bảo Đại về nước chấp chánh.
Vào năm lịch sử của toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tôi chào đời tại Long Điền vào ngày 29-6-1945 (dương lịch) , vào giờ hợi ngày 20-5-1945(âm lịch), năm Ất Dậu. Cô mụ vườn là chị Ba Tam, dâu của bác Ba. Lúc sanh tôi có điềm dị kỳ hơn những đứa trẻ khác, nên chị bảo má tôi : "số con nhỏ này lớn lên sẽ khác lạ, rất đặc biệt" . Cũng vì thế mà tôi mới có cái tên là "Dị" . Mỗi lần chị gặp tôi, chị hay lập lại câu đoán ấy. Dù không tin, nhưng lời nói của chị làm tôi băn khoăn suy nghĩ, có lẽ mình là người "đặc biệt" sau này chăng?
Sân banh Long Điền khi xưa là khu rừng tràm, vào thời Pháp đô hộ dùng làm pháp trường xử bắn người, là cũng là ngôi mộ chôn tập thể của những người bị tình nghi chống Pháp. Trước khi bị bị bịch mắt trói gô vào chiếc cọc, nạn nhân phải tự đào hố chôn mình.Từng loạt đạn ria vào nạn nhân, có người chết tại chổ, có kẻ bị thương. Họ bị xô xuống hố lấp đất lại ,chẳng cần biết họ sống hay chết, nếu không chết vì đạn thì cũng chết vì bị "chôn sống". Thân nhân người xấu số chẳng ai dám đến để nhìn xác.
Khi bọn giết người không gớm tay kia, thực hành xong bản án tử hình, trả lại sự yên tỉnh cho khu rừng tràm. Mùi tử khí chưa tan, đâu đây còn lảng vảng bóng tử thần, mầu cát trắng loang loáng máu, thì cũng là lúc diễn ra cảnh đàn chó điên man rợ, hung tợn như lũ chó sói. Con moi xác chết, con tha cái đầu, con tha cánh tay, con gậm chân nhai ngấu nghiến, chúng gầm gừ say máu, say thịt người.
Dân trong xóm có việc phải đi ngang qua khu rừng tràm, phải đợi cho đông người mới dám đi. Trên tay luôn thủ sẳn cát, khi bị lũ chó hoang tấn công thí vất cát vào mặt chúng, để chúng không thấy đường mà tấn công.
Thấy nhiều người bị chết oan, nên chú Hai Nguyễn Đình Chơn cùng lối xóm mới lập lên miễu bà Long An, để cúng giải oan cho nạn nhân xấu số. Cứ mỗi lần tiếng súng pháp trường nổ, thì hồi chuông chiêu hồn ngoài miễu cũng ngân lên vội vã. Ngôi miễu được cô Tư Ngọc Nữ trùng tu nhiều nhất. Cô có duyên nên thấm nhuần Phật pháp, quy y sớm với pháp danh là Diệu Lạc. Cô thường thực hành hạnh bố thí. Thuở nhỏ tôi không mơ ước những chuyện của những người con gái thường mơ ước, mà ước mơ sau này mình lớn lên mình sẽ noi gương theo cô cái hạnh "bố thí".
Ngôi nhà mới bên Long Hương
Tổng Tống Mỹ Roosevelt tạ thế ngày 12-4-1945, người lên kế vị là ông Harry Truman. Một quân nhân Mỹ bị giết đầu tiên tại Việt Nam là Trung Tá A.Peter Dewey (Cơ Quan Tình Báo Trung Ương). Ngày 14-4-1945 cựu Hoàng Bảo Đại ban chiếu huỷ bỏ hết các hiệp định với người Pháp.
Ngày 27-7-1945, khối Đồng Minh đã gửi tối hậu thư yêu cầu Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện, nhưng Thủ Tướng Suzuki Kantaro đã không quan tâm. Theo lệnh của Tổng Thống Harry S. Truman, lúc 8: 45 (giờ Hiroshima) ngày 6 -8-1945, máy bay B.29 "Enola Gay" do Pall Warfied Tibbets , đã thả quả bom nguyên tử "Little Boy" xuống thành phố Hiroshima.
Tại thời điểm bị đánh bom, Hiroshima là thành phố quan trọng cả về mặt quân sự đóng sát gần bộ chỉ huy sư đoàn số 5, bộ chỉ huy tập đoàn quân số 2 của Thống Chế Nhật Hata Shunroku Tư Lệnh phòng thủ toàn phần Nam Nhật Bản. Hiroshima là căn cứ hậu cần nhỏ của Quân đội Nhật Bản.
Thành phố là trung tâm liên lạc, điểm tàng trử và lắp ráp cho Quân đội. Trung tâm thành phố có vài công trình bằng bê tông và các cấu trúc yếu hơn. Ngoài phạm vi trung tâm là khu vực dày đặc các cửa hiệu, nhà ở bằng gỗ. Số lượng nhỏ nhà máy công nghiệp nằm ở ngoại ô thành phố.
Theo lệnh của Tổng Thống Harry Truman, quả bom thứ nhất mang tên Little Boy. Hiroshima là mục tiêu ưu tiên ( số 2 là Kokura và mục tiêu dự bị là Nagasaki). Chiếc B.29. Enola Gay (đặt theo tên của mẹ Đại tá Tibbets) của phi đoàn 509 . Cơ trưởng là Đại Tá Pall Tibbets, xuất phát từ North Field, căn cứ Không Quân trên đảo Tinium ở Tây Thái Bình Dương, cách Nhật Bản khoảng 6 giờ bay.
Đại Uý William Sterling đưa quả bom "Little Boy" vào tình trạng sẵn sàng sau khi máy bay cất cánh, trợ tá của ông Moris R. Jeppson dỡ các thiết bị an toàn của quả bom 30 phút trước khi tới mục tiêu. Cuộc tấn công được thực hiện đúng theo kế hoạch.
Khoảng 1 giờ trước cuộc tấn công, người Nhật đã phát hiện bằng radar một số máy bay của Mỹ tiếp cận lãnh thổ phía Nam Nhật Bản. Báo động được phát ra, và việc phát thanh ngừng ở nhiều thành phố, bao gồm cả Hiroshima. Các máy bay tiếp cận bờ biển với cao độ rất lớn. Lúc 8 giờ sáng, trạm radar ở Hiroshima thấy số lượng máy bay không hơn 3 chiếc và bỏ lệnh sẵn sàng đánh chặn bằng Không Quân.
Ba chiếc máy bay bị phát hiện đó đều là B-29: Chiếc Enola Gay, chiếc The Great Artiste với các thiết bị đo đạc và một chiếc khác không tên (sau đó được đặt là Necessary Evil) là máy bay ghi hình. Cảnh báo ở mức trung bình trên sóng radio tới dân chúng rằng, nên trú ẩn nếu nhìn thấy các máy bay B-29. Họ cho rằng các máy bay là do thám chứ không có đột kích bằng Không Quân.
Siêu pháo đài bay B-29 "Enola Gay" hạ cánh tại căn cứ quân sự Tinium sau khi hoàn thành nhiệm vụ.
Chiếc Enola Gay xuất hiện trên bầu trời Hiroshima thả quả bom nguyên tử "Lettle Boy" . Quả bom rơi bởi trọng lượng với khoảng 60 kg Uranium 235 và đương lượng 13 Kilotan, đã phát nổ cách mặt đất khoảng 600 m. (vũ khí nguyên tử xử dụng U-235 bị coi là không có hiệu năng cao, chỉ có 1,38 % khối lượng chúng phân hạch). Ngay lập tức giết chết ngay 90.000 ngàn người. Bán kích bị tàn phá là 1.6 km và cháy trên diện tích 4,4 km vuông. Ước tính 90% nhà cửa ở Hiroshima bị huỷ diệt hoặc hư hại.
"Hầu hết những ngôi nhà trong thành phố đều nát vụn dưới sức ép của quả bom. Tất cả những người ở ngoài trời đều chết ngay lập tức, những cái xác bốc cháy và biến dạng. Theo ước tính khoảng 140.000 người dân Hiroshima đã chết.
Sau vụ nổ ở Hirishima, Tổng Thống Truman tuyên bố "Nếu bây giờ họ không chấp nhận điều kiện của chúng ta, họ sẽ gánh chịu cơn mưa tàn phá từ trên trời, những thứ chưa hề biết đến trên trái đất" .
Chính phủ Nhật Bản vẫn không phản ứng gì với tuyên bố Polsdam. Bộ trưởng Ngoại giao Xô Viết Vjacheslav Mihajlovich Mololov, ngày 5-8-1945 thông báo tới Tokyo về việc huỷ bỏ hiệp ước trung lập Xô Viết-Nhật Bản. Chỉ vài phút sau, nửa đêm ngày 9-8-1945 giờ Tokyo. Bộ binh, Thiết Giáp của Liên Sô mở cuộc tấn công đội quân Quan Đông ở Mãn Châu. Bốn giờ sau đó Tokyo không nhận được lời tuyên chiến của chính phủ Liên Sô. Giới quân sự cao cấp của Nhật Bản, với sự ủng hộ của Bộ Trưởng Chiến Tranh Anam Korechika, bắt đầu chuẩn bị ban hành lệnh thiết quân lực trong cả nước nhằm ngăn chận bất kỳ kẻ nào nỗ lực cho hoà bình.
cảnh bom nguyên tử tàn phá thành phố Hiroshima
Sáng ngày 9-8-1945, pháo đài bay B-29 Bock's Car, cơ trưởng là Thiếu Tá Charles W. Sweeney mang quả bom nguyên tử "Fat Man", với mục tiêu số 1 là Kokura, mục tiêu thứ 2 là Nagasaki.
Vào lúc 7 giờ 50 giờ Nhật Bản, báo động máy bay vang lên ở Nagasaki, nhưng sau đó báo yên lúc 8 giờ 30. Khi chỉ có 2 chiếc B-29 bay đến lúc 10 giờ 53, người Nhật cho rằng những máy bay do thám và không phát lệnh báo động nữa.
Lúc 11 giờ 01, vào phút cuối cùng, mây đứt quảng trên bầu trời Nagasaki. Trên chiếc Bock's Car được lệnh thả bom . Kermit Beahan, nhìn thấy sân vận động thành phố bằng mắt qua lớp mây mỏng. Quả bom "Fat Man" mang lối khoảng 6,4 kg Plutonium 239, được thả xuống thung lũng công nghiệp của thành phố. 43 giây sau nó nổ ở 469 mét cách mặt đất, ở giữa xưởng thép và vũ khí của Misubishi, ở xưởng thuỷ lợi của Misubishi-Urakami.
Vụ nổ có đương lượng 21 Kiloton, nhiệt độ cao nhất đạt được là 3.871 C (7.000 fahrenheit) và sức gió khoảng 1.000 km/giờ (624 mph). Bán kính của vụ nổ là 1.6 km, những đám cháy trải dài từ phía Bắc của thành phố cho đến 3,2 km về phía Nam.
đám mây nấm trên bầu trời Nagasaki
Thành phố Nagasaki bị tàn phá của bom nguyên tử
Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện ngày 15-8-1945. Và khối Đồng Minh ký vào văn kiện đầu hàng ngày 2-9-1945, chấm dứt thế chiến thứ 2. Đến tháng 12-1945, hàng ngàn người chết bởi vết thương, nhiễm độc phóng xạ . Con số tử vong ở Hiroshima trong năm 1945 lên 140.000 ngàn người. Trong thời gian từ 1950-1990, thống kê tính hàng trăm người chết hàng năm do nhiễm phóng xạ của hai quả bom nguyên tử.
Sự tàn phá kinh khủng tàn bạo nhất của bom nguyên tử . Đây cũng là lần đầu tiên 1 quả bom nguyên tử sử dụng trong thời chiến, và nước Nhật Bản là nước đầu tiên trên thế giới bị ném bom. Ngày Nhật Bản vỡ mộng làm bá chủ hoàn cầu. Nếu không chẳng biết quân Nhật Bản còn bành trướng đến đâu?
Đó là cái quả của Nhật Bản đã gieo nhân, đã khiến cho gần 2 triệu người miền Bắc Việt Nam bị chết đói.Nạn đói bắt đầu từ tháng 10-1944, kéo dài đến giữa năm 1945. Do chính sự vơ vét của phát xít Nhật và của thực dân Pháp, cộng thêm sự mất mùa, thiên tai. Vào tháng 9-1944, lụt vỡ đê La Vang (Hà Tỉnh), đê sông Cả (Nghệ An), ruộng lúa bị rầy phá hoại. Nhật thì cấm chuyển lúa từ miền Nam ra. Nạn đói diễn ra ở 32 tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ từ Quảng Trị trở ra. Bệnh dịch tả, bệnh dịch hoành hành. Làng La Cả (Hoài Đức),số người chết đói hơn 2.000 dân số 4.800 dân, có 147 gia đình chết không còn ai. Nạn chết đói trong 32 tỉnh thống kê không dưới 2 triệu người. Một năm kinh hoàng nhất trong lịch sử Việt Nam.
Trại Giáp Bát -Hà Nội.
Nơi tập trung những nạn nhân đói năm 1945.
Ngày 18-8-1945, Nhật trao quyền hành lại cho Việt Nam. Đảng Việt Minh cướp chính quyền ngày 19-8-1945. Ngày 29-8-1945, Trần Huy Liệu vào cố đô Huế ép buộc vua Bảo Đại thoái vị, tôn ngài là cố vấn Vĩnh Thuỵ. Vào lúc 2 giờ trưa ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập tại vườn hoa Ba Đình.
Ngày 1-9-1945, chánh phủ Nam Kỳ tự trị ra đời. Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh là Thủ Tướng đầu tiên của miền Nam. Chiến tranh Đông Dương bùng nổ ngày 19-12-1946. Quân Pháp đổ bộ vào Hà Nội vào tháng 12-1946. D'argenlieu được bổ nhiệm làm Cao Uỷ và Tướng Valuy được cử làm Tổng Tư Lệnh đoàn quân viễn chinh. Ngày 1-10-1947, Hội Đồng Nội Các đồng thanh cử Thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân lập chánh phủ lâm thời. Năm 1948, cựu Hoàng Bảo Đại về nước chấp chánh.
Vào năm lịch sử của toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tôi chào đời tại Long Điền vào ngày 29-6-1945 (dương lịch) , vào giờ hợi ngày 20-5-1945(âm lịch), năm Ất Dậu. Cô mụ vườn là chị Ba Tam, dâu của bác Ba. Lúc sanh tôi có điềm dị kỳ hơn những đứa trẻ khác, nên chị bảo má tôi : "số con nhỏ này lớn lên sẽ khác lạ, rất đặc biệt" . Cũng vì thế mà tôi mới có cái tên là "Dị" . Mỗi lần chị gặp tôi, chị hay lập lại câu đoán ấy. Dù không tin, nhưng lời nói của chị làm tôi băn khoăn suy nghĩ, có lẽ mình là người "đặc biệt" sau này chăng?
Ưu tư em hỏi tên mình
Tại sao chẳng đẹp chẳng xinh như người
-Rằng con khác lạ mà thôi
Sân banh Long Điền khi xưa là khu rừng tràm, vào thời Pháp đô hộ dùng làm pháp trường xử bắn người, là cũng là ngôi mộ chôn tập thể của những người bị tình nghi chống Pháp. Trước khi bị bị bịch mắt trói gô vào chiếc cọc, nạn nhân phải tự đào hố chôn mình.Từng loạt đạn ria vào nạn nhân, có người chết tại chổ, có kẻ bị thương. Họ bị xô xuống hố lấp đất lại ,chẳng cần biết họ sống hay chết, nếu không chết vì đạn thì cũng chết vì bị "chôn sống". Thân nhân người xấu số chẳng ai dám đến để nhìn xác.
Khi bọn giết người không gớm tay kia, thực hành xong bản án tử hình, trả lại sự yên tỉnh cho khu rừng tràm. Mùi tử khí chưa tan, đâu đây còn lảng vảng bóng tử thần, mầu cát trắng loang loáng máu, thì cũng là lúc diễn ra cảnh đàn chó điên man rợ, hung tợn như lũ chó sói. Con moi xác chết, con tha cái đầu, con tha cánh tay, con gậm chân nhai ngấu nghiến, chúng gầm gừ say máu, say thịt người.
Dân trong xóm có việc phải đi ngang qua khu rừng tràm, phải đợi cho đông người mới dám đi. Trên tay luôn thủ sẳn cát, khi bị lũ chó hoang tấn công thí vất cát vào mặt chúng, để chúng không thấy đường mà tấn công.
Thấy nhiều người bị chết oan, nên chú Hai Nguyễn Đình Chơn cùng lối xóm mới lập lên miễu bà Long An, để cúng giải oan cho nạn nhân xấu số. Cứ mỗi lần tiếng súng pháp trường nổ, thì hồi chuông chiêu hồn ngoài miễu cũng ngân lên vội vã. Ngôi miễu được cô Tư Ngọc Nữ trùng tu nhiều nhất. Cô có duyên nên thấm nhuần Phật pháp, quy y sớm với pháp danh là Diệu Lạc. Cô thường thực hành hạnh bố thí. Thuở nhỏ tôi không mơ ước những chuyện của những người con gái thường mơ ước, mà ước mơ sau này mình lớn lên mình sẽ noi gương theo cô cái hạnh "bố thí".
Ngôi nhà mới bên Long Hương
Về nhà mới
Nhà em gần bãi xạ trường
Ngang Long Cốc Tự Long Hương quê nghèo
Khói rơm mờ phủ Mắt Mèo
Người đi chài sớm lưng đèo gùi tôm
Nhà em gần bãi xạ trường
Ngang Long Cốc Tự Long Hương quê nghèo
Khói rơm mờ phủ Mắt Mèo
Người đi chài sớm lưng đèo gùi tôm
Giữa nền căn nhà từ đường bỗng nhiên gò mối đùn lên. Chẳng biết sợ điều bất tường? hay là sợ cái pháp trường gần nghĩa trang gia đình? nhưng có một điều chắc chắn là má "ghen" , muốn gần cậu để dễ bề kiếm soát. Lúc ấy cậu thuê ruộng làm mùa bên xóm Đồng (Long Hương). Cũng vì cậu đẹp người, mà lại có tài đặt câu hò, câu hát, nên nhiều cô si mê bám theo.
Má mướn xe ngựa lên bắt ghen mấy lần nhưng không được. Người tính kế cao hơn, không cần đánh ghen nữa mà hâm doạ đứa chăn bò, Tết sẽ không cho quần áo mới. Thế là nó khai ra tuốt luốt. Có bằng chứng hẳn hoi nên cậu phải nhận, lại đòi má cưới cho bà nhì. Má xách dao phay hỏi con nhỏ nào muốn ăn dao không? Cậu sợ tịt ngòi, lại còn bị ông bà nội bắt nằm xuống đánh đòn. Từ đó không còn dám léng phéng với ai nữa.
Cậu với má có thể nói là sống rất hạnh phúc, không có cảnh chồng say sưa , bê tha rượu chè. Chưa bao giờ cậu to tiếng với vợ con. Tôi nghĩ cậu nể má hơn là sợ, bởi có lần cậu đánh bài thắng được rất nhiều tiền. Má không mừng mà cầm lấy quăng xuống đất bảo:
-"Tôi không cần thứ tiền phi nghĩa đó!"
Nguyên do bởi ông bà nội hay cờ bạc. bà nội đi thì dẩn chi Hai Cấm đi theo, bị thua nhiều lần nên phải cầm cố ruộng đất. Má đi chuộc lại, nên người cấm tất cả các con, dù Tết cũng không được chơi bài, nếu thấy bài kể như nức đít, còn bài thì làm mồi cho ông Táo.
Đa số trong xã hội Việt Nam, người đàn ông là cột trụ gia đình, đàn bà chỉ lo việc nội trợ. Gia đình tôi thì ngược lại, má làm nghề bánh tráng nuôi cả gia đình, nên người ngồi lò quanh năm. Người không có thì giờ săn sóc con cái. Bếp núc, may vá do bà quản gia đảm trách, các em nhỏ thì có người giữ trẻ.
Gia đình tôi dọn về nhà mới bên Long Hương(Bà Rịa), vào năm 1950. Anh Tám Búp lên 7, tôi lên 5 với mái tóc ngẳn ngủn kiểu bum bê, anh hay trêu là kiểu "mủng dừa" . Mười Thanh thì mới lên 3, mấy anh chị với ông bà nội dọn về trước với má. Tôi với em Thanh được cậu đón về nhà mới bằng chiếc xe bò.
Cách một chiếc cầu bắc qua sông Dinh là Long Hương có diện tích 1458 km. Phía Bắc giáp xã Tân Hưng, Nam giáp thành phố Vũng Tàu, Đông giáp phường Phước Hưng, Phước Trung, Tây giáp phường Kim Dinh. Lưng dựa vào núi cao. Một làng quê yên bình mộc mạc.
Long Hương là địa danh có hơn 300 năm. Buổi đầu chỉ có một nhóm hơn 100 người, đi thuyền đến Rạch Dừa, vượt qua sông Bà Cói, đến định cư trên bờ sông Dinh về phía xóm Lăng, họ chuyên nghề chài lưới, nên lập miễu thờ cá Ông, thuộc vế ấp xóm Lăng. Đình thần ở xóm Đình, thờ Thần Hoàng. Niên hiệu Tự Đức thứ 5, ngày 29 tháng 11 năm 1852 ban sắc thần cho vị thần đình Long Hương. Đầu năm 1946 , bị đốt cháy nhưng sau đó lửa tự tắt, dấu tích bị cháy là tấm liễn và bàn thờ trong chánh điện.
Đình toạ lạc đầu thôn trên một gò đất cao ráo rộng hơn 1970 mét vuông, nơi có con lạch sông Dinh chảy qua. Kiến trúc đình hình chữ Tam, lưng tựa núi Dinh, mặt hướng ra sông Dinh. Năm 1992 mới xây cổng đình. Đình thuộc về ấp Hương Điền. Lệ đình cúng Kỳ Yên hằng năm vào ngày 15-16-17 tháng 11 âm lịch.
Long Cốc Tự ở xóm Chùa thuộc về ấp Hương Sơn. Miếu Bổn Điền thờ Thần Nông, nơi ghi nhớ Hoà Thượng Long Cốc cầu mưa, thuộc về ấp Hương Sơn, đường vào xạ trường Vạn Kiếp. Cả 3 di tích này có sau khi Hoà Thượng Long Cốc cầu mưa, muốn rõ hơn xin đọc Long Cốc Tự trong Nghiệp Duyên.
Khu đất nằm trên quốc lộ 15, đường vào tỉnh và tuyến đường
Sàigòn, đường lên xạ trường của Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp. Ngó xéo qua là chùa Long Cốc. Chỉ cách nhau một con lộ mà bên chùa là cát trắng, bên nay lại đất đen. Từ lộ bước xuống. con đường đất khá lớn chạy ngang cái cống. Bên phải là ruộng của bác Tư Du thầy thuốc nam, Bên trái là ruộng thiếm Tư Ngàn. Ngó xéo ra quốc lộ 15, có thêm cái cống lớn, mùa mưa nước nguồn đổ về. Hai dòng nước chảy tới ranh đất nhập chung lại một dòng, nước chảy xuống cánh đồng xóm dưới rồi đổ ra sông.
Ngôi nhà biệt lập với lối xóm, căn nhà ngói khang trang nằm lọt thỏm giữa vườn cây ăn trái, bao quanh bởi 3 mái nhà tranh cho ở nhờ.Nền nhà tráng xi măng, vách bằng ván bổ kho loại ván dầu. Hàng hiên thật rộng, mặt tiền nhìn ra hướng Đông Nam. nên nhà luôn mát mẻ bởi hứng nắng trong lành buổi ban mai.
Ruộng lúa bao quanh như một cù lao nhỏ, cuối đất là đám ruộng gò nối liền với cánh đồng Mắt Mèo xanh rờn bao la đến tận mé sông, đám ruộng phía sau của bà Mười Sau. Dân xóm dưới, hay xóm chùa đi chài, đi ruộng, thường đi ngang con đường nhỏ ngoài hàng rào bông giấy.
Người ở đậu trong đất, căn nhà đầu tiên là gia đình ông Bảy Ky (nghề đan ky). chỉ có 1 trai cưới vợ người Hoà Long. Căn nhà thứ hai của chú Sáu Danh (nghề chài lưới), gia đình rất đông con, con trai lớn tên Bời. Bác Bảy Hiển ở cuối đất, bái gái mất sớm, có một trai là anh Nguyễn Ngọc Chương. Anh lập gia đình với chị Năng, con gái bà cả Lựu, được một trai rồi bỏ nhau, anh đi lính xa ngoài Nha Trang. Bác gái sau, chỉ có ba cô gái là :Nữ-Hoa- Hường. Bác gái là bánh khoai mì bán ngoài chợ. Chị em Nữ chân thật hiền lành, cả ba đều đẹp, trội nhất là Hoa có gương mặt trái soan.
Ngôi nhà mới còn an ninh, nên họ hàng miệt Long Điền,An Ngãi, Đất Đỏ thường lên tạm trú, làm mùa, lánh nạn, và đi học. Nên nhà lúc nào cũng đông như trại chứa người tỵ nạn. Bên Xóm Đồng Long Hương, chỉ mình má làm nghề báng tráng nên rất đắc hàng, với nghề đó người tạo nên sự nghiệp khá lớn.
Phần đông trong xóm nhà lộp bằng tranh, nền đất, có khi bằng vách đất, kiểu thường giống y chang nhau. Tranh cắt trên rừng, chuyên chở bằng xe bò, đan thành liếp để lợp nhà hoặc đậy muối. Vách bằng đất trộn với rơm, tạm che cơn gió núi lạnh se da vào những ngày cận Tết.
Khi gia đình tôi dọn đến , bà quản gia của ông Kiểm Lâm vẫn ở lại giúp việc . Bà chỉ có một gái là chị Năm Rổ. Chị bị trái khi còn nhỏ, nên vết sẹo đầy trên mặt nên mới có biệt danh đó. Chị theo chồng về đảo bà Trao, chồng chị mặc bà ba đen và búi tóc.
Long Hương đất rộng người thưa, tương đối còn an ninh hơn những vùng khác. Dân tứ xứ từ miệt Long An là Gò Đen, Phước Hoà, Rạch Nghệ, Phước Lợi, Long Điền... rủ nhau đến lập nghiệp. Từ đầu làng đến cuối xóm mọi người đều biết nhau như : chị Ba Đương bên xóm Chùa, chú Năm Văn , chú Bảy Thôi, Mười Hoàng, Bảy Kiếm, dì Ba Dời... Thiếm Tư Ngàn xóm Đình, cô Hai Ẩn bán cá xóm Lăng. ..
Người Nam ít người cần mẫn, phồng đông làm việc tà tà, ăn chơi lè phè , nhất là "bợm nhậu" say xỉn, hay đánh chửi hành hạ vợ con, như cái bệnh chung bất trị của dân nhậu. Lối xóm không ai dám can thiệp mà luật pháp cũng làm ngơ vì chẵng có luật "cấm hành hạ phụ nữ" . Nên người phụ nữ phải cam phận, chịu đựng sống trong sự bạo hành, lại thêm con đàn cháu đống không bỏ nhau được.
Từ phía sau nhà, nhìn qua là nhà chú Ba Sâm, băng qua thì tới khu đất chú Mười Vĩ, tôi thường thấy chú say, đi té lên té xuống lọt ùm dưới ruộng, thiếm Mười phải ra kéo chú lên. Khi tỉnh thì chú là người rất thân thiện với lối xóm, khi say rồi thì bạo hành với vợ con, mấy đứa nhỏ con chú mới mấy tuổi đầu đã phải xách chai đi mua rượu.
Tới mùa mưa, anh Ba Quyến người Long Điền là người cày cho cậu, sau này thế người em là anh Năm Bông, má xem anh như con nuôi và rất thương anh. Nhà luôn có người giữ em, nấu ăn. Mỗi năm anh Ba Tam từ Long Điền lên ở đậu để làm ruộng, đem theo đứa chăn bò tên Hai Nhánh, có thành tích "ăn trộm" đến đổi má phải cảnh giác:
-Thằng Nhánh lên rồi đó! Đứa nào có tiền bạc thì phải cất cho kỷ nghe hông!
Một hôm đi học về, tôi thấy anh Hai Nhánh trùm mền nằm trên divan rên hừ hừ. Tôi hỏi má anh đau gì? Má bảo:
-Thề thì mắc! Thắt thì rối! Thề bị bà móc nhãn, mới khiến cho con bò nó đá nằm con mắt!
Số là dãy ruộng gò nối liền đất của má, có một gia đình rất là nghèo, nhà bằng tranh nhưng trống quơ, trống hoát. Họ nhận đánh roi thuê, bị mất trộm 1 ký gai. Lá gai dùng làm bánh ít lá gai, thân cây tướt vỏ làm dây gai để đánh roi bò. Biết anh là thủ phạm mới năn nỉ xin lại, dỗ dành cách mấy anh cũng không nhận mà còn thề rằng: (Tui mà có lấy thì bà móc nhãn tôi đi).
Nhà bị mất trộm thuộc loại nghèo "rách mồng tơi" , cơm không đủ ăn mà phải nai lưng ra làm thêm để trả nợ ký gai kia. Trong khi đó anh Hai Nhánh đem số gai ăn trộm kia ra phân phát cho đám chăn bò chơi, nhẫn tâm nhìn nạn nhân khốn khổ đến tận cùng. Anh đã gieo cái "nhân xấu" nên nhận cái "quả xấu", là chột hết một mắt vì lời thề. Từ đó anh có biệt danh là "Hai Nhánh độc nhãn".
Tưởng anh bị cú đó sợ mà chừa, nhưng "ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt" , cả đến nhà tôi anh cũng không chừa, ăn trộm bưng luôn nguyên ổ gà nòi đang ấp. Má lên thẳng nhà anh lấy lại, sợ má đưa ra xả, nên lạy lục xin tha. Má giận la mắng một hồi rồi cũng tha anh.Đến khi anh lập gia đình dời về Long Hương, hàng xóm thường hay bị mất trộm.
Bà nội già nên bị đảng trí, ông bà chỉ sống được vài năm ở nhà mới, rồi nối gót nhau qua đời. Cô Chín Huyện có về để tang, cô ít về thăm cha mẹ vì hiềm khích với má tôi. Cả 2 đám tang ông bà nội đều được cử hành trọng thể, khiêng bộ từ Long Hương về đến sân banh Long Điền, an táng trong nghĩa trang gia đình kế bên miễu bà Long An.
Má mướn xe ngựa lên bắt ghen mấy lần nhưng không được. Người tính kế cao hơn, không cần đánh ghen nữa mà hâm doạ đứa chăn bò, Tết sẽ không cho quần áo mới. Thế là nó khai ra tuốt luốt. Có bằng chứng hẳn hoi nên cậu phải nhận, lại đòi má cưới cho bà nhì. Má xách dao phay hỏi con nhỏ nào muốn ăn dao không? Cậu sợ tịt ngòi, lại còn bị ông bà nội bắt nằm xuống đánh đòn. Từ đó không còn dám léng phéng với ai nữa.
Cậu với má có thể nói là sống rất hạnh phúc, không có cảnh chồng say sưa , bê tha rượu chè. Chưa bao giờ cậu to tiếng với vợ con. Tôi nghĩ cậu nể má hơn là sợ, bởi có lần cậu đánh bài thắng được rất nhiều tiền. Má không mừng mà cầm lấy quăng xuống đất bảo:
-"Tôi không cần thứ tiền phi nghĩa đó!"
Nguyên do bởi ông bà nội hay cờ bạc. bà nội đi thì dẩn chi Hai Cấm đi theo, bị thua nhiều lần nên phải cầm cố ruộng đất. Má đi chuộc lại, nên người cấm tất cả các con, dù Tết cũng không được chơi bài, nếu thấy bài kể như nức đít, còn bài thì làm mồi cho ông Táo.
Đa số trong xã hội Việt Nam, người đàn ông là cột trụ gia đình, đàn bà chỉ lo việc nội trợ. Gia đình tôi thì ngược lại, má làm nghề bánh tráng nuôi cả gia đình, nên người ngồi lò quanh năm. Người không có thì giờ săn sóc con cái. Bếp núc, may vá do bà quản gia đảm trách, các em nhỏ thì có người giữ trẻ.
Gia đình tôi dọn về nhà mới bên Long Hương(Bà Rịa), vào năm 1950. Anh Tám Búp lên 7, tôi lên 5 với mái tóc ngẳn ngủn kiểu bum bê, anh hay trêu là kiểu "mủng dừa" . Mười Thanh thì mới lên 3, mấy anh chị với ông bà nội dọn về trước với má. Tôi với em Thanh được cậu đón về nhà mới bằng chiếc xe bò.
Cách một chiếc cầu bắc qua sông Dinh là Long Hương có diện tích 1458 km. Phía Bắc giáp xã Tân Hưng, Nam giáp thành phố Vũng Tàu, Đông giáp phường Phước Hưng, Phước Trung, Tây giáp phường Kim Dinh. Lưng dựa vào núi cao. Một làng quê yên bình mộc mạc.
Long Hương là địa danh có hơn 300 năm. Buổi đầu chỉ có một nhóm hơn 100 người, đi thuyền đến Rạch Dừa, vượt qua sông Bà Cói, đến định cư trên bờ sông Dinh về phía xóm Lăng, họ chuyên nghề chài lưới, nên lập miễu thờ cá Ông, thuộc vế ấp xóm Lăng. Đình thần ở xóm Đình, thờ Thần Hoàng. Niên hiệu Tự Đức thứ 5, ngày 29 tháng 11 năm 1852 ban sắc thần cho vị thần đình Long Hương. Đầu năm 1946 , bị đốt cháy nhưng sau đó lửa tự tắt, dấu tích bị cháy là tấm liễn và bàn thờ trong chánh điện.
Đình toạ lạc đầu thôn trên một gò đất cao ráo rộng hơn 1970 mét vuông, nơi có con lạch sông Dinh chảy qua. Kiến trúc đình hình chữ Tam, lưng tựa núi Dinh, mặt hướng ra sông Dinh. Năm 1992 mới xây cổng đình. Đình thuộc về ấp Hương Điền. Lệ đình cúng Kỳ Yên hằng năm vào ngày 15-16-17 tháng 11 âm lịch.
Đình Long Hương
Long Cốc Tự ở xóm Chùa thuộc về ấp Hương Sơn. Miếu Bổn Điền thờ Thần Nông, nơi ghi nhớ Hoà Thượng Long Cốc cầu mưa, thuộc về ấp Hương Sơn, đường vào xạ trường Vạn Kiếp. Cả 3 di tích này có sau khi Hoà Thượng Long Cốc cầu mưa, muốn rõ hơn xin đọc Long Cốc Tự trong Nghiệp Duyên.
Khu đất nằm trên quốc lộ 15, đường vào tỉnh và tuyến đường
Sàigòn, đường lên xạ trường của Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp. Ngó xéo qua là chùa Long Cốc. Chỉ cách nhau một con lộ mà bên chùa là cát trắng, bên nay lại đất đen. Từ lộ bước xuống. con đường đất khá lớn chạy ngang cái cống. Bên phải là ruộng của bác Tư Du thầy thuốc nam, Bên trái là ruộng thiếm Tư Ngàn. Ngó xéo ra quốc lộ 15, có thêm cái cống lớn, mùa mưa nước nguồn đổ về. Hai dòng nước chảy tới ranh đất nhập chung lại một dòng, nước chảy xuống cánh đồng xóm dưới rồi đổ ra sông.
Ngôi nhà biệt lập với lối xóm, căn nhà ngói khang trang nằm lọt thỏm giữa vườn cây ăn trái, bao quanh bởi 3 mái nhà tranh cho ở nhờ.Nền nhà tráng xi măng, vách bằng ván bổ kho loại ván dầu. Hàng hiên thật rộng, mặt tiền nhìn ra hướng Đông Nam. nên nhà luôn mát mẻ bởi hứng nắng trong lành buổi ban mai.
Ruộng lúa bao quanh như một cù lao nhỏ, cuối đất là đám ruộng gò nối liền với cánh đồng Mắt Mèo xanh rờn bao la đến tận mé sông, đám ruộng phía sau của bà Mười Sau. Dân xóm dưới, hay xóm chùa đi chài, đi ruộng, thường đi ngang con đường nhỏ ngoài hàng rào bông giấy.
Ngôi nhà biệt lập với lối xóm, căn nhà ngói âm dương khang trang nằm lọt thỏm giữa vườn cây ăn trái, bao quanh 3 cái nhà tranh cho ở nhờ. Nền tráng xi măng, vách ván bổ kho, có hàng hiên thật rộng. Mặt tiền nhìn ra hướng Đông Nam , nên luôn mát bởi hứng nắng buổi sáng. Thời đó chưa có điện, chỉ xài đèn măng song hay đèn dầu và nước giếng. Có 2 giếng nước, giếng phía trước rất trong, ít khi cạn, nước đủ cho 4 gia đình . Giếng phía sau thì nắng đục mưa trong, chỉ để tưới.
Ruộng lúa bao quanh đất như một cù lao nhỏ, cuối đất là đám ruộng gò nối liền với cánh đồng Mắt Mèo đến tận mé sông, đám ruộng sâu phía sau của bà Mười Sao. Dãy núi xa xa phía sau như bao bọc ngôi nhà. Sơn thuỷ hữu tình , có núi có sông, suối. Căn nhà mới nửa quê, nửa chợ thật lý tưởng, như một thế giới trung lưu . Tôi có cảm tưởng mình như cô tiểu thư theo cha mẹ về hưu sống ẩn dật.
Mười Thanh- Nina Kim
Căn nhà mua lại của ông Quản Quạ (Kiểm Lâm)
Đám đất tới hai chủ, khoảng 2 mẫu tây, má mua nhập chung lại. Nhà của ông Kiểm Lâm, gọi là ông Quản Quạ. Căn nhà trên để thờ, cửa lúc nào cũng đóng kín im ỉm trông âm u. Bức ảnh Quan Thánh Đế Quân thật lớn thờ chính giữa, trên bàn để mấy quyển kinh, chuông mõ, với cuốn sách "Đường nào đi đến chơn tiên" . Cậu thường tụng kinh mỗi đêm, đến đổi không nghe tiếng súng.
Trong nhà thờ, hai tấm gương thật lớn choáng cả vách, vẽ hình long phụng mầu sắc sặc sở. Ba cái tủ thờ, chính giữa là bộ bàn hình chữ nhật, hai bên là hai bộ ván cẩm lai. Phía sau là phòng ngủ, ngăn ra bởi cái bồ lúa cao khỏi đầu. Căn nhà kế, có bộ bàn tròn, mà cậu thường tiếp khách, và phòng ngủ. Nhà bếp và phòng ăn một căn riêng biệt, cái bàn ăn thật dài, hai băng thay cho ghế vì nhân số khá đông. Kế là nhà làm bánh tráng, cối giả gạo, vựa chứa phân hoá học Urée , do Mỹ viện trợ cho nông dân xài thử. Tất cả mái đều bằng ngói âm dương, chỉ trừ chuồng bò mới lợp tranh . Cối đá xây bột đặc trước hiên nhà sau.
cây khế cổ thụ
Vườn trầu nền đất cao, được tấn bằng đá xanh, mùi hương hoa cau thơm ngát cả khu vườn, nơi làm tổ của mấy con sáo, cưởng... Vườn nhiều mãn cầu, ổi, và khoai từ, khoai mở, mía và vườn chuối. Điều dọc theo ranh đất với tre tàu vàng. Hàng rào bông giấy chỉ từ cây khế tới cây dầu cổ thụ. Đặc biệt là cây "ô môi" đơn độc bên buội bông giấy, cạnh cái giếng phía sau.
Người ở đậu trong đất, căn nhà đầu tiên là gia đình ông Bảy Ky (nghề đan ky). chỉ có 1 trai cưới vợ người Hoà Long. Căn nhà thứ hai của chú Sáu Danh (nghề chài lưới), gia đình rất đông con, con trai lớn tên Bời. Bác Bảy Hiển ở cuối đất, bái gái mất sớm, có một trai là anh Nguyễn Ngọc Chương. Anh lập gia đình với chị Năng, con gái bà cả Lựu, được một trai rồi bỏ nhau, anh đi lính xa ngoài Nha Trang. Bác gái sau, chỉ có ba cô gái là :Nữ-Hoa- Hường. Bác gái là bánh khoai mì bán ngoài chợ. Chị em Nữ chân thật hiền lành, cả ba đều đẹp, trội nhất là Hoa có gương mặt trái soan.
Ngôi nhà mới còn an ninh, nên họ hàng miệt Long Điền,An Ngãi, Đất Đỏ thường lên tạm trú, làm mùa, lánh nạn, và đi học. Nên nhà lúc nào cũng đông như trại chứa người tỵ nạn. Bên Xóm Đồng Long Hương, chỉ mình má làm nghề báng tráng nên rất đắc hàng, với nghề đó người tạo nên sự nghiệp khá lớn.
Phần đông trong xóm nhà lộp bằng tranh, nền đất, có khi bằng vách đất, kiểu thường giống y chang nhau. Tranh cắt trên rừng, chuyên chở bằng xe bò, đan thành liếp để lợp nhà hoặc đậy muối. Vách bằng đất trộn với rơm, tạm che cơn gió núi lạnh se da vào những ngày cận Tết.
Khi gia đình tôi dọn đến , bà quản gia của ông Kiểm Lâm vẫn ở lại giúp việc . Bà chỉ có một gái là chị Năm Rổ. Chị bị trái khi còn nhỏ, nên vết sẹo đầy trên mặt nên mới có biệt danh đó. Chị theo chồng về đảo bà Trao, chồng chị mặc bà ba đen và búi tóc.
ruộng muối
Xã Long Sơn nằm trên núi Nứa, án ngữ bên vịnh Gành Rái về phía Nam rừng Sác. Bốn bề sông biển bao quanh, giữa đảo nổi lên hòn núi uốn khúc tựa hình con rồng nên mới gọi là Long Sơn. Đền bà Trao do ông Trần xây dựng vào khoảng năm 1909. "Vì ông hay ở trần". Bây giờ gọi là (Nhà Lớn Long Sơn). Chánh điện thờ Đức Khổng Tử , sau này thờ người xây đền là ông Trần. Tên thật là Lê Văn Mưu (1856-1935). Ông gốc Hà Tiên, đến Bà Rịa khai khẩn đất đai và chiêu dân lập ấp.
đền Ông Trần
Theo đạo ông Trần búi tóc, mặc bà ba đen, chân trần, đầu không đội nón. Tục lệ chôn cất, nhười quá cố sẽ được chôn trong vòng 24 giờ đồng hồ. Trong một áo quan xử dụng chung (áo quan đặt tại nhà lớn). Muốn qua đảo bà Trao, phương tiện duy nhất là bằng tàu hay ghe. Phần đông dân sống bằng nghề chài lưới.
Long Hương đất rộng người thưa, tương đối còn an ninh hơn những vùng khác. Dân tứ xứ từ miệt Long An là Gò Đen, Phước Hoà, Rạch Nghệ, Phước Lợi, Long Điền... rủ nhau đến lập nghiệp. Từ đầu làng đến cuối xóm mọi người đều biết nhau như : chị Ba Đương bên xóm Chùa, chú Năm Văn , chú Bảy Thôi, Mười Hoàng, Bảy Kiếm, dì Ba Dời... Thiếm Tư Ngàn xóm Đình, cô Hai Ẩn bán cá xóm Lăng. ..
Người Nam ít người cần mẫn, phồng đông làm việc tà tà, ăn chơi lè phè , nhất là "bợm nhậu" say xỉn, hay đánh chửi hành hạ vợ con, như cái bệnh chung bất trị của dân nhậu. Lối xóm không ai dám can thiệp mà luật pháp cũng làm ngơ vì chẵng có luật "cấm hành hạ phụ nữ" . Nên người phụ nữ phải cam phận, chịu đựng sống trong sự bạo hành, lại thêm con đàn cháu đống không bỏ nhau được.
Từ phía sau nhà, nhìn qua là nhà chú Ba Sâm, băng qua thì tới khu đất chú Mười Vĩ, tôi thường thấy chú say, đi té lên té xuống lọt ùm dưới ruộng, thiếm Mười phải ra kéo chú lên. Khi tỉnh thì chú là người rất thân thiện với lối xóm, khi say rồi thì bạo hành với vợ con, mấy đứa nhỏ con chú mới mấy tuổi đầu đã phải xách chai đi mua rượu.
Tới mùa mưa, anh Ba Quyến người Long Điền là người cày cho cậu, sau này thế người em là anh Năm Bông, má xem anh như con nuôi và rất thương anh. Nhà luôn có người giữ em, nấu ăn. Mỗi năm anh Ba Tam từ Long Điền lên ở đậu để làm ruộng, đem theo đứa chăn bò tên Hai Nhánh, có thành tích "ăn trộm" đến đổi má phải cảnh giác:
-Thằng Nhánh lên rồi đó! Đứa nào có tiền bạc thì phải cất cho kỷ nghe hông!
Một hôm đi học về, tôi thấy anh Hai Nhánh trùm mền nằm trên divan rên hừ hừ. Tôi hỏi má anh đau gì? Má bảo:
-Thề thì mắc! Thắt thì rối! Thề bị bà móc nhãn, mới khiến cho con bò nó đá nằm con mắt!
Số là dãy ruộng gò nối liền đất của má, có một gia đình rất là nghèo, nhà bằng tranh nhưng trống quơ, trống hoát. Họ nhận đánh roi thuê, bị mất trộm 1 ký gai. Lá gai dùng làm bánh ít lá gai, thân cây tướt vỏ làm dây gai để đánh roi bò. Biết anh là thủ phạm mới năn nỉ xin lại, dỗ dành cách mấy anh cũng không nhận mà còn thề rằng: (Tui mà có lấy thì bà móc nhãn tôi đi).
Nhà bị mất trộm thuộc loại nghèo "rách mồng tơi" , cơm không đủ ăn mà phải nai lưng ra làm thêm để trả nợ ký gai kia. Trong khi đó anh Hai Nhánh đem số gai ăn trộm kia ra phân phát cho đám chăn bò chơi, nhẫn tâm nhìn nạn nhân khốn khổ đến tận cùng. Anh đã gieo cái "nhân xấu" nên nhận cái "quả xấu", là chột hết một mắt vì lời thề. Từ đó anh có biệt danh là "Hai Nhánh độc nhãn".
Tưởng anh bị cú đó sợ mà chừa, nhưng "ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt" , cả đến nhà tôi anh cũng không chừa, ăn trộm bưng luôn nguyên ổ gà nòi đang ấp. Má lên thẳng nhà anh lấy lại, sợ má đưa ra xả, nên lạy lục xin tha. Má giận la mắng một hồi rồi cũng tha anh.Đến khi anh lập gia đình dời về Long Hương, hàng xóm thường hay bị mất trộm.
Bà nội già nên bị đảng trí, ông bà chỉ sống được vài năm ở nhà mới, rồi nối gót nhau qua đời. Cô Chín Huyện có về để tang, cô ít về thăm cha mẹ vì hiềm khích với má tôi. Cả 2 đám tang ông bà nội đều được cử hành trọng thể, khiêng bộ từ Long Hương về đến sân banh Long Điền, an táng trong nghĩa trang gia đình kế bên miễu bà Long An.
Di tích- Lịch sử và danh nhân Bà Rịa
Cuộc chiến tranh Việt- Pháp vẫn còn tiếp diễn. Pháp ký hiệp ước ngày 8-5-1948. giao trả chủ quyền cho Quốc trưởng Bảo Đại. Tướng De Lattre De Tassigny làm Cao Uỷ toàn quyền Dân sự và Quân sự tại Đông Dương. Ông nhậm chức ngày 17-12-1950. Đứa con trai độc nhất của ông là Trung Uý Bemard tử trận tại đền Non Nước (Ninh Bình). Quốc trưởng Bảo Đại cử ông Trần Văn Hữu chức Thủ Tướng thay thế ông Nguyễn Phan Long.
Năm 1950 (Canh Dần) , hai cuộc rút quân quan trọng trong cuộc chiến giữa Pháp và Việt Minh. Cuộc triệt thoái khỏi Cao Bằng của Quân đội Pháp vào tháng 10-1950, do chính Đại Tướng Carpentier, Tổng Tư Lệnh Quân đội Pháp tại Đông Dương. Trên quốc lộ 4 (Cao Bằng-Lạng Sơn), kết quả cuộc triệt thoái này, 8.000 ngàn quân Pháp, tất cả lực lượng Chiến xa, Pháp binh, Quân xa, Quân cụ... từ Cao Bằng rút về đều bị huỷ diệt, nên Tướng Carpentier ra lệnh bỏ luôn Lạng Sơn.
Trận chiến Điện Biên Phủ
Vào những năm 1950-1951, lính viễn chinh Pháp trú đóng tại Việt Nam khoảng 150.000 binh sĩ. Sau khi Tướng De Lattre De Tassigny, Tổng Tư Lệnh quân đội Pháp qua đời ngày 11-1-1952 với căn bệnh ung thư. Tướng Navarre lên thay thế. Ông Trần Văn Hữu từ chức và ông Nguyễn Văn Tâm lên thay thế chức Thủ Tướng, sau cùng là ông Vĩnh Lộc.
Bà Rịa thuộc tỉnh Phước Tuy, phía Bắc giáp tỉnh Long Khánh, phía Đông là Đông Hải (Thái Bình Dương), phía tây giáp tỉnh Biên Hoà, cách thành phố Sàigòn 100 cây số về phía Đông Nam. Diện tích 1.989 cây số vuông. Tỉnh lỵ đặt tại Phước Lễ (Bà Rịa). Quốc lộ 15 và liên tỉnh 23 là những trục lộ quan trọng nối liền với các tỉnh khác. Phi trường nhỏ nằm trong thị xã Vũng Tàu.
Theo Đại Nam Thực Lực: Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng cử Phù Nghĩa hàn Lương Văn Chính đưa lưu dân vào vùng đất từ Nam đèo Cù Nông đến đèo Cả để khai hoang lập ấp, mở đầu sự nghiệp khai phá xứ Đàng Trong, bắt đầu cuộc Nam tiến.
Đến đời người con thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi) , dựa vào vùng đất mới từ Hoành Sơn (đèo Ngang) đến Thạch Bi Sơn (núi Đá Bia) , xây dựng cơ nghiệp, tiếp tục mở rộng vào phía Nam.
Năm 1620, Quốc vương Chân Lạp là Prea Chettra cưới con gái con chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên là công chúa Ngọc Vạn. và gả thêm công chúa Ngọc Khoa cho vua Chiêm Thành (Bình Thuận ngày nay). Chúa Sãi giúp rể là vua Chân Lạp chống các cuộc xâm lấn của vua Xiêm. Để trả ơn vua Chân Lạp cho chúa Sãi mượn đất Sài Côn (Sàigòn) và cho lưu dân người Việt vào lập nghiệp ở Mô Xoài (nay là Bà Rịa).
Trong sử sách Bà Rịa là người phụ nữ có công khai hoang lập ấp. Dân nhớ ơn bà nên lấy tên đặt cho vùng đất mới. Bà Rịa người Phú Yên (1665-1759). Năm 15 tuổi (1670) thời Hiền vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687), bà có mặt trong đoàn lưu dân từ Dinh Trấn Biên (Phú Yên) vào Nam lập nghiệp. Bà khai khẩn vùng rừng núi Đồng Xoài (xã Hoà Long),Hướng dần về biển đến Lữ Khê, mở rộng đến vùng Gò Xoài-Phước Lễ. Xã Tam An do 2 xã An Nhất và Tam Phước. Khai hoang đến Láng Dài-Xuyên Mộc.
Với những công trạng ấy Bà Rịa được chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1752), phong tước hàm Nghè và sắc phong cho mang họ chúa, từ đó có tên là Nguyễn Thị Rịa. Bà sống qua 5 đời chúa Nguyễn và mất năm 1759 thời võ vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), tại Hắc Lăng, xã Tam An, hưởng thọ 94 tuổi. Bà Rịa không có con cái, nên 300 mẫu ruộng của bà khai hoang được sung vào công điền cho người nghèo.
Miếu thờ Bà Rịa ở Xã Tam An huyện Long Đất-tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, phần mộ khắc dòng chữ Nguyễn Thị Rịa tiên nương, đối diện chùa Phước Linh gần chợ Tam Phước. Năm 1902, được trường Viễn Đông Bác Cổ Đông Dương trùng tu. Và năm 1936, được chính quyền trùng tu lần nữa. Cây cầu nối Tam Phước-An Nhất (nơi Bà Rịa khai hoang 300 mẫu ruộng) , được mang tên là cầu bà Nghè. Bà được chúa Nguyễn Phúc Chu phong hàm Nghè, như Tiến Sĩ danh dự ngày nay. Ngày giỗ Bà Rịa là ngày 16-6 âm lịch.
Năm 1808, Vua Gia Long sát nhập trấn Biên Hoà thuộc vào Gia Định. Trong thời Pháp thuộc, Biên Hoà được chia làm 3 tỉnh là: Bà Rịa-Thủ Dầu Một và Biên Hoà. Năm 1895, thực dân Pháp tách rời đất Vũng Tàu khỏi Bà Rịa để lập tỉnh thứ 21.
Bà Rịa rất hiếm thi nhân nỗi tiếng như miền Bắc, miền Trung. Duy nhất chỉ có ông Huỳnh Tịnh Của, học giả nỗi tiếng vào thời Nguyễn, tác giả của sách Đại Nam Quốc Âm Tư Vị, Chuyện Gỉai Buồn...
Chùa Long Bàn(1845) Huyện Long Điền- Tỉnh Bà Rịa
Di tích về Bà Rịa không có gì đáng kể, ngoài ngôi chùa Long Cốc hơn 300 năm và chùa Long Bàn tại Long Điền . Theo niên hiệu khắc trên xà ngang giảng đường thì chùa Long Bàn được xây dựng vào năm Thiệu Trị thứ năm Ất Tỵ (1845). Hai vị Hoà Thượng Hải Chánh và Bảo Thanh là đệ tử của Hoà Thượng Giác Ngộ, trụ trì chùa Bát Nhã trên núi Long Sơn tỉnh Phú Yên, vào trụ trì chùa Long Bàn đầu tiên, nên được dân làng tôn làm vị Tổ khai sơn của chùa. Long Bàn là ngôi chùa thuộc phái thiền tông, dòng Lâm Tế. Ngôi Đình Thần Long Hương, miễu Bổn Điền, mộ Lâm Thao Quận Công Châu Văn Tiếp tại làng Hắc Lăng, phủ An Phú Thượng, huyện Long Đất, và Bàu Thành...
Bàu Thành Long Điền (Tỉnh Bà Rịa)
Chùa Long Cốc có trước đình Long Hương được xây dựng gần 300 năm. Hiện còn giữ nguyên kiến trúc cổ xưa gồm ba gian hai chái, mái ngói âm dương. Nơi chánh điện thờ tượng Phật A Di Đà cốt bằng cây mít. năm 1983, tượng Phật được đấp y thành tượng Phật Thích Câu chuyện về Hoà Thượng Long Cốc xin đọc trong "Nghiệp Duyên" .
Vào khoảng đầu nửa thế kỷ 20, cả vùng Bà Rịa chỉ có vài ba trường sơ cấp, nam nữ tiểu học. Người mang sinh khí thay đổi bột mặt Bà Rịa, đào tạo nhiều nhân tài, phải kể là cụ Cử Hồ Đắc Thăng. Ông sinh vào đầu thế kỷ (1903) mãn phần ngày 25-11-1973 (âm lịch).
Mọi người chỉ dám gọi ông Ba hay ông Cử, không ai dám gọi tên cúng cơm của ông. Gốc gác ông từ miền Trung, di cư vào Nam từ nhiều đời, ở Ba Dừa làng Mỹ Đông Trung, nay thuộc Cai Lậy tỉnh Tiền Giang (Mỹ Tho). Cha là ông Bái Lầu ruộng cò bay thẳng cánh. Từ tổ tiên lập nghiệp truyền đến đời ông là đời thứ 8 . Ông du học tại Pháp, đậu cử nhân văn chương tại trường Đại Học Sorbone, về nước ông không ra làm quan mà chỉ lo chăm sóc cho dân nghèo và nuôi học sinh nghèo.
Ông dời cư về Bà Rịa vì là rể của cụ Đốc Phủ Sứ Lê Thành Long, biệt thự số 138 đường Thành Thái (Boulevard Galliéni). Cũng là nơi cụ Cử tổ chức thành lớp học (trung cấp gia đình). Chỉ riêng môn sinh Sĩ Tải của thầy đã tới vài ba ngàn. Vào thập niên 50, Bà Rịa chưa có bác sĩ, chỉ có một tiệm thuốc Tây Bình Dân duy nhất của cô Chín. Cụ Cử vừa dạy học, vừa là thầy thuốc chữa bệnh. Khi chánh phủ Trần Trọng Kim ra đời, cụ Cử dự phần soạn thảo chương trình giáo dục Hoàng Xuân Hản, trùng tu đình Phước Lễ, xây dựng chùa Hội Phước (chùa Cây Dương-Phước Lễ), hưng đại công trình Thích Ca Phật Đài và dịch pháp... Dù cụ không ra làm quan, nhưng tiếng tăm của cụ vang lừng khắp nơi, được sự kính nể của những quan chức đương thời. Cụ Cử đã xem công danh như mây nổi, mang trái tim Bồ Tát cụ vui với việc thiện, chỉ mang lợi tha, trí huệ cho người. Cuộc đời cụ Cử là một tấm gương đạo đức sáng ngời, đáng là một danh nhân Bà Rịa.
Cụ bà sang đoàn tụ với con trai là Bác sĩ Hồ Đắc Đằng từ năm 1992, tại tiểu bang Illinois. Bác sĩ Hồ Đắc Đằng là con trai duy nhất, chỉ có 3 cô con gái. Vào năm 2004 bà cử Thăng vẫn còn tại thế được 96 tuổi, bà qua đời sau đó vài năm.
Năm Thìn bão lụt
Năm 1952 (Nhâm Thìn), khi má sanh đứa em gái tên Bé Út, cũng là năm Bà Rịa bị lụt. Cả xóm náo động, họ gọi nhau ơi ới, mấy nhà đất thấp, họ dắt trâu bò, gồng gánh chạy qua chùa Long Cốc tránh lụt. Tôi nghe tiếng nước dâng ầm ầm, chỉ mấy phút sau cả cánh đồng Mắt Mèo chìm trong biển nước mênh mông, chỉ thấy trời và nước. Khu đất nhà của má nhờ đất cao nên mực nước chỉ mấp mé gần đến cây khế chua. Miệt Bà Rịa chỉ thiệt hại về mùa màng, về nhân mạng cùng tài sản, bị thiệt hại nặng nhất là vùng ven sông Biên Hoà. Sau trận lụt nhớ đời, sợ đến đổi anh Tám Búp hay ví von (năm Thìn bão lụt ị trong nhà hỗng dám ra).
Bão vào Bình Thuận qua tỉnh Long Khánh vào tỉnh Thủ Dầu Một (Bình Dương). Tại huyện Bến Cát, nạn lụt làm hàng trăm người tù không còn ai sống sót. Mỹ Tho thiệt hại 35%, Gò Công trên 60%. 5.000 người chết trôi. Các làng ven biển vùng Cửa Khâu, Làng Kiển Phước, Tân Bình Điền, Tân Thành, Tăng Hoà bị thiệt hại nặng cả người và nhà cửa. Ngư dân Phan Thiết bị nước cuốn trôi ra biển mất tích.
Nước sông Đồng Nai, huyện Châu Thành nước lên cao 4 mét, chợ Tây Ninh 3m 6. Vùng Suối Đôi cầu Lộc Ninh lên đến 18.7 mét. Sông Vàm Cỏ Đông, sông Bé thành một bễ nước mênh mông. Những câu ca dao về năm thìn bão lụt như nhắc nhở về định lực vô thường, có thịnh ắt có suy đó là luật bù trừ của tạo hoá.
Bão vào Bình Thuận qua tỉnh Long Khánh vào tỉnh Thủ Dầu Một (Bình Dương). Tại huyện Bến Cát, nạn lụt làm hàng trăm người tù không còn ai sống sót. Mỹ Tho thiệt hại 35%, Gò Công trên 60%. 5.000 người chết trôi. Các làng ven biển vùng Cửa Khâu, Làng Kiển Phước, Tân Bình Điền, Tân Thành, Tăng Hoà bị thiệt hại nặng cả người và nhà cửa. Ngư dân Phan Thiết bị nước cuốn trôi ra biển mất tích.
Nước sông Đồng Nai, huyện Châu Thành nước lên cao 4 mét, chợ Tây Ninh 3m 6. Vùng Suối Đôi cầu Lộc Ninh lên đến 18.7 mét. Sông Vàm Cỏ Đông, sông Bé thành một bễ nước mênh mông. Những câu ca dao về năm thìn bão lụt như nhắc nhở về định lực vô thường, có thịnh ắt có suy đó là luật bù trừ của tạo hoá.
Gặt mặt mình mới biết mình còn
Năm Thìn bão lụt, anh khóc mòn con ngươi
Năm Thìn trời bão thình lình
Kẻ trôi người nổi hai đứa mình còn đây
Từ ngày bão lụt Nhâm Thìn
Đến nay trôi nổi tôi mới nhìn được em
Địa danh Long Hương đã có từ hơn 300 năm trước, qua khỏi cầu Long Hương , bên phải là xóm Đình, bên trái là xóm Lăng, dân chuyên nghề đánh cá nên xây Lăng thờ cá ông, nên mới đặt tên là xóm Lăng, còn xóm Đình vì là có đình thần, cạnh giòng sông Dinh. Xóm Đồng vì là có cánh đồng Mắt Mèo. Dân địa phương thật giản dị không đặt tên cầu kỳ mà chỉ đặt tên đúng theo nơi đó có gì đặc biệt.
Qua khỏi cánh đồng Mắt Mèo là xóm Lăng có đập ông Bổ, dọc mé sông xóm Đồng có đập ông Ba Hà, thường hay có người chết trôi, trong đó có anh Niển, con trai bác Tám Tất xuôi gia của má. Và một câu chuyện khó tin nhưng có thật đã xảy ra vào khoảng 1952, có liên quan đến cậu tôi.
Chú Năm Nhi, ngụ trên đất chú Mười Vĩ, có cô con gái khoảng 16 tuổi tên là Quận. Chị đi bắt cá hôi của đập ông Ba Hà, bỗng nhiên chị ngả xuống chết. Lời đồn đại là nơi ấy có quỷ và chị bị quỷ bắt hồn. Chú Năm mời nào thầy bùa, thầy pháp đến trục hồn. thầy nào cũng bó tay. Tim chị đã ngừng đập, chỉ còn một chút hơi ấm nơi ngực.
Cậu tôi đi thăm về, có lẽ cảm thương đứa con gái chết còn quá trẻ, nên cậu mới bẻ nắm bông điệp trước nhà, xách theo dĩa trái cây cùng kinh, chuông mõ. Trở lại nhà chú Năm Nhi, tụng cho chị một thời kinh. Ai cũng cười cho rằng cậu làm chuyên vô ích, vì bao nhiêu thầy bùa, thầy pháp mà chị vẫn trơ trơ. Chị chết đã mấy hôm rồi. Nhưng một phép lạ đã xảy ra khi cậu vừa xong thời kinh thì chị Quận thở hắt ra bật ngồi dậy như quỷ nhập tràng. Chị về từ cõi chết, trông chị như người ngủ mê vừa tỉnh dậy, chẳng biết có ai quá sợ mà tè ra quần không? Sự nhiệm mầu nào mà chị đã sống lại? Sau này chị Quận lấy chồng, con cháu đông đúc. Mỗi cái Tết, ngày giỗ của cậu tôi, chị mang hoa hoả đến cúng và chị kể cho tôi nghe cái ơn cứu tử ấy.
con đường quê
Những cái Tết gắn liền với tuổi thơ chúng tôi, như con đường đất ngoằn ngoèo gắn liền với người dân quê nhọc nhằn, như hàng tre xanh không thể thiếu bên mái tranh hiền hoà. Dù sống trong chiến tranh, nhưng tuổi thơ của chúng tôi đẹp hơn của thơ của thành phố. Được no cơm, áo quần lành lặn là một điều may mắn, nhiều gia đình phải ăn cơm độn với khoai.
Từ Long Hương (xóm Đồng) chỉ cách Long Điền chưa tới 10 cây số. Chúng tôi chỉ được về quê nội trong những dịp Tết. Đường vào nhà nội qua sân banh toàn là cát trắng, trong xóm thường trồng cây xương rồng làm hàng rào cao hơn đầu người, những gai lởm chởm, mà hoa xương rồng chẳng ai thích, chỉ có lũ trẻ nghịch ngợm hái chơi.
Bên nội tôi chỉ biết vài gia đình như: chú Ba Thăng, chú Tư Chà, chú Hai Chơn, anh chị Ba Tam, chị Năm Bỉnh, anh Bảy Lương, vai em là chú Ba Cỏn,chú Năm Hổ, cô Tư Ngọc Nữ.... Mỗi Tết về chúng tôi nhập bọn với con anh chị Ba Tam là: Bê- Bí-Mật- Nhiệm, con chú Ba Cỏn là Tuấn Luận, con chú Tư Chà là Bảy Eo. Má không thuận với vợ chú Bảy Lương, thành ra chúng tôi không dám qua nhà, nên không biết anh có mấy người con và tên gì? Tôi nhỏ tuổi hơn Bê, đồng tuổi với Bí, nhưng phải gọi tôi bằng cô.
Vào thời đó Long Điền vẫn còn xe ngựa chở khách về Vũng Dằn, chợ Bến. Nhà ngoại miệt An Ngãi. Cậu Tám Cát thừa hưởng căn nhà từ đường giữ phần hương quả. Nhà cậu Tư ở miếng đất phía sau, đến nhà mợ hay có bánh ít lá gai. Anh Tám hay đùa là tại "ít" quá nên anh không ăn. Vì sợ "phạm uý" mợ Tư hay cử chữ "tiền" thành chữ "tờn" . Nhà dì Mười thì phải đi vài con đường nữa, trên đường đến nhà ngoại, quẹo phải, thì tới một chút quẹo trái là nhà dì Năm. Chị Ba Lùn, con cậu Tư, dì Năm. dì Mười đều sống bằng nghề bánh tráng.
Chỉ dì Bảy lấy chồng về Lò Vôi- Long Hải. Dì đổi nghề trồng tỉa và chăn nuôi. Tết đến nhà dì , tiền lì xì thì ít, nhưng đổi lại tha hồ hái dư hấu, đào khoai lang, ăn no nóc còn mang về . Cũng tại khoai lang mà tôi bị cậu cú đầu vì lỡ "phạm uý", phải nói là "khoai lơn-lá quốc cờ". Và một chuyện nhớ đời khi tôi xí xọn đeo nhẫn không cổi ra được, phải nhờ dượng Bảy cưa ra dùm. Dân quê phần đông chân trần quanh năm, chỉ những khi lễ lộc mới mang guốc, mang dép. Về An Ngãi quê ngoại rợp bóng mát tre xanh, còn được ngắm cây nêu vào dịp Tết.
Từ Long Hương (xóm Đồng) chỉ cách Long Điền chưa tới 10 cây số. Chúng tôi chỉ được về quê nội trong những dịp Tết. Đường vào nhà nội qua sân banh toàn là cát trắng, trong xóm thường trồng cây xương rồng làm hàng rào cao hơn đầu người, những gai lởm chởm, mà hoa xương rồng chẳng ai thích, chỉ có lũ trẻ nghịch ngợm hái chơi.
Bên nội tôi chỉ biết vài gia đình như: chú Ba Thăng, chú Tư Chà, chú Hai Chơn, anh chị Ba Tam, chị Năm Bỉnh, anh Bảy Lương, vai em là chú Ba Cỏn,chú Năm Hổ, cô Tư Ngọc Nữ.... Mỗi Tết về chúng tôi nhập bọn với con anh chị Ba Tam là: Bê- Bí-Mật- Nhiệm, con chú Ba Cỏn là Tuấn Luận, con chú Tư Chà là Bảy Eo. Má không thuận với vợ chú Bảy Lương, thành ra chúng tôi không dám qua nhà, nên không biết anh có mấy người con và tên gì? Tôi nhỏ tuổi hơn Bê, đồng tuổi với Bí, nhưng phải gọi tôi bằng cô.
Vào thời đó Long Điền vẫn còn xe ngựa chở khách về Vũng Dằn, chợ Bến. Nhà ngoại miệt An Ngãi. Cậu Tám Cát thừa hưởng căn nhà từ đường giữ phần hương quả. Nhà cậu Tư ở miếng đất phía sau, đến nhà mợ hay có bánh ít lá gai. Anh Tám hay đùa là tại "ít" quá nên anh không ăn. Vì sợ "phạm uý" mợ Tư hay cử chữ "tiền" thành chữ "tờn" . Nhà dì Mười thì phải đi vài con đường nữa, trên đường đến nhà ngoại, quẹo phải, thì tới một chút quẹo trái là nhà dì Năm. Chị Ba Lùn, con cậu Tư, dì Năm. dì Mười đều sống bằng nghề bánh tráng.
Chỉ dì Bảy lấy chồng về Lò Vôi- Long Hải. Dì đổi nghề trồng tỉa và chăn nuôi. Tết đến nhà dì , tiền lì xì thì ít, nhưng đổi lại tha hồ hái dư hấu, đào khoai lang, ăn no nóc còn mang về . Cũng tại khoai lang mà tôi bị cậu cú đầu vì lỡ "phạm uý", phải nói là "khoai lơn-lá quốc cờ". Và một chuyện nhớ đời khi tôi xí xọn đeo nhẫn không cổi ra được, phải nhờ dượng Bảy cưa ra dùm. Dân quê phần đông chân trần quanh năm, chỉ những khi lễ lộc mới mang guốc, mang dép. Về An Ngãi quê ngoại rợp bóng mát tre xanh, còn được ngắm cây nêu vào dịp Tết.
Tuổi thơ và ngục tù
Hân hoan nắn nót từng hàng
Bảng đen mốc thích dãy bàn mực lem
Trường tôi khám lớn kề bên
Đánh vần chẳng lấp tiếng rên của tù!
Dân quê số đông là nghèo nên chịu thất học, mà nữ giới không được cho đi học chữ. Được đi học là niềm hãnh diện mà đứa trẻ nào cũng mơ ước. Khi thấy Nữ được đi học, tôi khóc đòi đi theo, cậu mới đi nạp khai sanh xin cho tôi nhập học. Má sắm cho tôi 2 bộ quần đen, áo trắng, một đôi guốc vông,vỡ, cây viết muỗng cán bằng cây với bình mực chai.
Ngày tựu trường, trong bộ đồ còn mới toanh, cậu nắm tay tôi dẫn đi, bàn tay nhỏ bé của tôi nằm trọn trong bàn tay ấm áp của cậu. Sự yêu thương như chuyền sang tôi, và tôi vững tin có cậu che chở , đở nâng. Tôi nức lòng theo tiếng guốc vông lốc cốc rộn rã trên đường quê, ríu rít đi bên cậu, nhìn những bạn mà lòng hãnh diện. Tôi nhớ mãi lời nói của cậu dặn dò:
-Con ráng học cho giỏi! Mai sau nên người hữu dụng nghe con!
Đứa nào cũng được mẹ đưa đi nhập học, có đứa khóc không chịu vào lớp. Riêng tôi thì trái lại, được cha đưa đi và tôi mạnh dạn buông tay cậu, dạn dĩ bước vào lớp.
Lớp học vở lòng do cô giáo Tạ Thị Nhân đảm trách. Cô có làn da trắng hồng, tướng cao ráo sanh trọng. Người con trai riêng của cô tên là Nguyễu Hữu Khổ. Người chồng sau là Trưởng Ty Thông Tin Cao Văn Hiện, đời vợ trước là con gái bà Mười Sau, ông goá vợ, có một trai.Chấp nối với ông Hiện, cô có thêm một trai hai gái. bài học vở lòng "Công cha, nghĩa mẹ, công thầy" cô trang bị cho tôi vào đời, hình ảnh khả kính của cô giáo Nhân vẫn còn đậm nét trong tôi.
Trong lớp trai gái học chung, học sinh thì tuổi tác chênh lệch. Bởi các vùng quê chưa có trường, nên cha mẹ cố gắng đưa con ra tỉnh học, kiếm chút chữ nghĩa cho con làm vốn. Tôi học chung với hai chi em Nữ,Hoa. Hoa vì trùng tên nên có biệt danh là "Hoa Huỳnh", dù rằng Hoa họ Nguyễn. Vì cách phát âm của người Nam không phân biệt được, nên tôi có biệt danh là "Dị Nguyễn", còn Vị biệt danh là "Vị Hồ".
Tôi chỉ nhớ vài bạn học chung lớp là Nữ-Hoa-Vị- Thảo-Nghi-Mẫn... Bọn con trai thì tôi không nhớ đứa nào cả, chỉ nhớ tụi nó lười không tắm, nên cô giáo Nhân phạt đứng kỳ đất, đến đỏ lơ đỏ lửng, rồi cô kể chuyện vườn cây biết đi để hù tụi nó. Học tới lớp hai thì đã có chương trình Pháp văn. muốn cho dễ nhớ để viết Vocabulaire, cô bảo hãy nhớ viết là "võ cá bự lại rẻ".
Những bạn trong xóm may mắn được đi học là: chị Tốt-anh Thiệt-Bông-Bắc-Bản-Nữ-Hoa-Hường-Thảo-Tiên-Mẫn... Anh Tám Búp học trên tôi một lớp, học chung với anh Võ Ngọc Ấn-Võ Ngọc Sơn- Huỳnh Văn Tỏ... Mỗi ngày đi học má phát cho 1 đồng, ăn sáng có khi bánh mì, hoặc xôi hết 50 xu, còn 50 xu dành cho buổi chiều, tiền xu có lổ ở giữa. Khi xài tiền giấy, không có tiền thối lại thì xé cái rẹt làm hai. Sau này chia đôi Nam, Bắc, mọi người lại truyền miệng nhau. Tại tiền mà xé làm hai, là điềm bất tường báo trước?
Thị xả Châu Thành Bà Rịa với nhịp sống chậm buồn của một tỉnh lẻ, phố đi lanh quanh dăm ba phút lại quay về lối cũ. Dòng đời trầm lặng trôi như dòng nước sông Dinh. Chợ Dinh bao bọc bởi hai dãy phố, nằm cạnh sông Dinh với dòng nước lờ lợ nửa dòng, dù mưa hay nắng nước vẫn đục quanh năm. Nước nguồn từ sông Hàng đổ xuống, gặp nước mặn từ biển theo nhánh sông chảy tới chân cầu. hai dòng nước hoà hợp giao tình. Những con tàu từ đảo Bà Trao, Núi Nứa, đàn ông còn búi tóc, đi chân trần, trông họ bình dị hiền lành, như những nhân vật xa xưa trong truyện cổ tích. Chợ không lớn lắm nhưng phồn thịnh. Bà Rịa không có những toà nhà cao ngất, không có nhiều con đường tráng nhựa thênh thang. Chỉ có một ngọn đèn lưu thông chớp chớp.
Sông Dinh nước lợ nửa dòng
Dù mưa hay nắng vẫn ròng rả trôi
Bà Trao trông đứng trông ngồi
Để cho núi Nứa bồi hồi nhớ ai
Trường Tiểu Học bên tỉnh thật xa, mỗi ngày hai lần phải lội bộ qua mấy đám ruộng, nhiều khi guốc đứt quai phải lội bộ trên đường nhựa lúc trưa nắng, dầu hắt chảy ra làm phải vừa đi vừa nhảy đầm. Đụt nắng , đụt mưa dưới cây sao trước nhà chị Sâm. Cơn gió núi thổi qua, từng trái sao rơi xoay tròn, xoay mãi... mùa mưa thì ướt như chuột lột, dù có cặp đệm, nhưng phải luồn tập trong áo cho khỏi ướt.
Qua nhà dì Ba Vời, căn nhà ngói nằm thụt phía trong, tới nhà chú Tư Trò người có tiếng tiêu du dương trầm bổng, kế là nhà chú Sáu Ai. Bên kia đường, nhà dưới hụp thấp là nhà ông Ba Tẩu, được ngăn với nhà ông Ba Hà bằng hàng tre xanh. Bà Ba Hà có xập vải ngoài chợ, nhà có xe hơi, dù giầu có, ruộng đất nhiều nhưng ông vẫn gắn bó với ruộng đồng. Các con đều đi học xa, có người là sĩ quan của VNCH. Qua khỏi nhà ông Xã Bộ, hai bên đường đều là ruộng, mới tới đồn lính Tây. Như ranh giới ngăn chia, từ đồn lính Tây khỏi vòng rào là vùng mất an ninh. Ban đêm quân du kích lẻn về, nên thỉnh thoảng Tây mở cuộc bố ráp.
Qua khỏi ngôi biệt thự sang trọng của ông Chín Qưới tiệm vàng sẽ thấy tấm bảng "Tại đây có bán gạo nhanh chồn". Cạnh bên là nhà bà giáo Hồ, nơi mà mọi người đến lánh nạn, trong đó có gia đình tôi. Đối diện nhà bà giáo Hồ sau này là nhà Đại Tá Huỳnh Văn Tư, gần nhà thầy Trương Thế Khôi, cô Đỗ Thị Nhung, nhà Hoành Anh, Hoàng Yến... Con hẻm nhỏ ngang hong nhà bà giáo Hồ là lối vào nhà thầy giáo Lý, ba của Ngọc Sương. Bên kia lối vào đình và thành thất Cao Đài, mặt tiền nhìn ra lộ là nhà thầy giáo Khánh, ông Cai Tổng Đường, quán Công Luận...
Nhà hội mới nằm bên phải hướng ra sông Dinh, đường xuống xóm Lăng. Qua cầu, chợ nằm bên phải, đầu phố bên trái là tiệm hình Minh Cảnh, cuối phố là tiệm may Hồng Hoa, chính giữa là tiệm thuốc bắc Bá An Đường, tiệm thuốc Tây Bình Dân, tiệm chạp phô của bác Chín Lợi. Bác là chủ ruộng cậu thuê làm mùa, sau ruộng bán lại cho tiệm thuốc Tây Bình Dân.
Quẹo trái ngay tiệm Hồng Hoa, đi vài chục bước thì là Bưu Điện nằm bên phải, đi một khoảng ngắn thì dinh Tỉnh Trưởng nằm bên trái, dân địa phương quen gọi là "Toà Bố". Khám đường nằm ngay góc cùng một dãy với trường học. Ngôi trường nhỏ khiêm tốn với mái ngói rêu phong, nằm cạnh khám đường ,đối diện khu quân sự của Pháp.
Bên góc tấm bảng đen quá cũ mốc thích, đám trẻ chúng tôi hân hoan nắn nót từng chữ a...b... ê a tập đáng vần. Nhưng tâm hồn vô tư của chúng tôi bị dao động, bởi tiếng thét rùng rợn của người tù bị tra khảo, từ bên khám đường vọng sang. Cô giáo Nhân đang viết trên bảng mà tay run run, có lẽ cô cũng đang dao dộng như chúng tôi chăng? Chúng tôi những đám trẻ may mắn được ngồi trong lớp học. Có đứa chưa viết rành chữ cái đã phải bỏ học vì cha ngồi tù, tụi nó lăn lốc ra đời phải đi chăn bò, đứa bán bánh, đứa coi em cho người ta.
Còn anh em chúng tôi học được ngày nào hay ngày nấy. Cứ mỗi chiều đi học về, nuốt vội vàng chén cơm để di tản ra nhà bà giáo Hồ, nếu đi trể cổng đóng thì kể như kẹt lại trong vùng mất an ninh, cả hai bên có đánh nhau thì dân lãnh đủ đạn cả hai phía.
Những ngày đi học, thỉnh thoảng gặp vài người lính Lê Dương bị bao vây bởi đám con nít chìa tay xin bánh kẹo. Ba anh em chúng tôi đứng xa xa mà hổ thẹn thầm. Có lẽ ngạc nhiên vì thái dộ của chúng tôi mà người lính Lê Dương đó đến tận chổ chúng tôi mà cho bánh kẹo. Tôi không mừng như những đứa trẻ khác , mà nhìn ông ta người khác mầu da tóc vàng, mắt xanh mà thắc mắc. Họ từ đâu tới? Họ muốn gì ở cái xứ xa xôi nghèo nàn rách nát này? Cũng do sự giáo huấn trong gia đình nên chúng tôi chưa bao giờ ngửa tay để xin!
Những danh từ "Việt Minh" chống Pháp, được người lớn mô tả kêu gọi lòng yêu nước, vài người trong xóm bỏ vào bưng. Lính Còm Măng Đô ruồng bố bắt người hảm hiếp và thủ tiêu. Giòng sông hiền hoà ven cánh rừng chà là xóm Đồng, cứ vài bữa dân chài lại chài được những cái xác trôi sông bị "mò tôm" trong bao bố, những cái thây không đầu do mã tấu cắt ngọt. Khi chị Năm tôi bỏ vào bưng kháng chiến, tôi bồi hồi xúc động với bài thơ của Quang Dũng.
Tôi hoạ lại như sau:
Dòng thơ xót đau, hình ảnh chết chóc điêu tàn như một cuộn phim lần lượt thu vào trong một góc trí nhớ. Cái tuổi "ăn chưa no, lo chưa tới" . Nỗi băn khoăn thao thức đến với tôi rất sớm, và tôi thù ghét chiến tranh. Tôi biết mình không bình thường như những đứa trẻ khác!
Căn nhà thờ ngày trước, đêm đêm ngân đều tiếng chuông, mõ hoà với tiếng cầu kinh của cậu, bay trong gió làm xao xuyến mấy hàng cao, làm vầng trăng thôn dã cũng ngẩn ngơ lắng đọng. Từ ngày cậu đi tù bỗng lạnh lẽo âm u, chuông, mõ nằm buồn bã bên mấy cuốn kinh bụi bám. Bức tượng Quan Thánh Đế Quân cũng buồn hiu vì vắng người hôm sớm cầu kinh. Hàng cau càng xơ xác hơn vì nhớ người tụng niệm, trăng tròn rồi lại khuyết, nhưng cậu vẫn chưa về.
Ông bà nội chạy đủ thứ thầy nhưng không hết, sau này chị bớt mới gả chồng bên đạo, hy vọng nhờ rửa tội chị sẽ hết điên. Nhưng mỗi lần sanh cơn điên lại tái phát, bì bị bệnh tâm thần nên 2 đứa con trước phải cho vô cô nhi viện. Mấy đứa con sau còn lại được là nhờ bà nội giữ lại nuôi.
Cũng nhờ chồng chị là Cảnh Sát nên má dễ dàng thăm nuôi cậu hơn những người tù khác. Những người trong xóm thường đến nhờ má mang dùm đồ cho thân nhân, nên lúc nào má cũng phải mang thật nhiều đồ thăm nuôi. Mỗi cuối tuần tôi đều phải bế em theo má thăm nuôi, thỉnh thoảnh anh Tám với Thanh mới được đi theo.
Mồ côi chaQua nhà dì Ba Vời, căn nhà ngói nằm thụt phía trong, tới nhà chú Tư Trò người có tiếng tiêu du dương trầm bổng, kế là nhà chú Sáu Ai. Bên kia đường, nhà dưới hụp thấp là nhà ông Ba Tẩu, được ngăn với nhà ông Ba Hà bằng hàng tre xanh. Bà Ba Hà có xập vải ngoài chợ, nhà có xe hơi, dù giầu có, ruộng đất nhiều nhưng ông vẫn gắn bó với ruộng đồng. Các con đều đi học xa, có người là sĩ quan của VNCH. Qua khỏi nhà ông Xã Bộ, hai bên đường đều là ruộng, mới tới đồn lính Tây. Như ranh giới ngăn chia, từ đồn lính Tây khỏi vòng rào là vùng mất an ninh. Ban đêm quân du kích lẻn về, nên thỉnh thoảng Tây mở cuộc bố ráp.
Qua khỏi ngôi biệt thự sang trọng của ông Chín Qưới tiệm vàng sẽ thấy tấm bảng "Tại đây có bán gạo nhanh chồn". Cạnh bên là nhà bà giáo Hồ, nơi mà mọi người đến lánh nạn, trong đó có gia đình tôi. Đối diện nhà bà giáo Hồ sau này là nhà Đại Tá Huỳnh Văn Tư, gần nhà thầy Trương Thế Khôi, cô Đỗ Thị Nhung, nhà Hoành Anh, Hoàng Yến... Con hẻm nhỏ ngang hong nhà bà giáo Hồ là lối vào nhà thầy giáo Lý, ba của Ngọc Sương. Bên kia lối vào đình và thành thất Cao Đài, mặt tiền nhìn ra lộ là nhà thầy giáo Khánh, ông Cai Tổng Đường, quán Công Luận...
Nhà hội mới nằm bên phải hướng ra sông Dinh, đường xuống xóm Lăng. Qua cầu, chợ nằm bên phải, đầu phố bên trái là tiệm hình Minh Cảnh, cuối phố là tiệm may Hồng Hoa, chính giữa là tiệm thuốc bắc Bá An Đường, tiệm thuốc Tây Bình Dân, tiệm chạp phô của bác Chín Lợi. Bác là chủ ruộng cậu thuê làm mùa, sau ruộng bán lại cho tiệm thuốc Tây Bình Dân.
Quẹo trái ngay tiệm Hồng Hoa, đi vài chục bước thì là Bưu Điện nằm bên phải, đi một khoảng ngắn thì dinh Tỉnh Trưởng nằm bên trái, dân địa phương quen gọi là "Toà Bố". Khám đường nằm ngay góc cùng một dãy với trường học. Ngôi trường nhỏ khiêm tốn với mái ngói rêu phong, nằm cạnh khám đường ,đối diện khu quân sự của Pháp.
Bạn tôi đèn sách chưa quen
Hôm qua bỏ học trường nhen nhúm buồn
Trường tôi nằm cạnh khám đường
Mỗi ngày cắp sách tôi thường đi qua...
Bên góc tấm bảng đen quá cũ mốc thích, đám trẻ chúng tôi hân hoan nắn nót từng chữ a...b... ê a tập đáng vần. Nhưng tâm hồn vô tư của chúng tôi bị dao động, bởi tiếng thét rùng rợn của người tù bị tra khảo, từ bên khám đường vọng sang. Cô giáo Nhân đang viết trên bảng mà tay run run, có lẽ cô cũng đang dao dộng như chúng tôi chăng? Chúng tôi những đám trẻ may mắn được ngồi trong lớp học. Có đứa chưa viết rành chữ cái đã phải bỏ học vì cha ngồi tù, tụi nó lăn lốc ra đời phải đi chăn bò, đứa bán bánh, đứa coi em cho người ta.
Còn anh em chúng tôi học được ngày nào hay ngày nấy. Cứ mỗi chiều đi học về, nuốt vội vàng chén cơm để di tản ra nhà bà giáo Hồ, nếu đi trể cổng đóng thì kể như kẹt lại trong vùng mất an ninh, cả hai bên có đánh nhau thì dân lãnh đủ đạn cả hai phía.
Những ngày đi học, thỉnh thoảng gặp vài người lính Lê Dương bị bao vây bởi đám con nít chìa tay xin bánh kẹo. Ba anh em chúng tôi đứng xa xa mà hổ thẹn thầm. Có lẽ ngạc nhiên vì thái dộ của chúng tôi mà người lính Lê Dương đó đến tận chổ chúng tôi mà cho bánh kẹo. Tôi không mừng như những đứa trẻ khác , mà nhìn ông ta người khác mầu da tóc vàng, mắt xanh mà thắc mắc. Họ từ đâu tới? Họ muốn gì ở cái xứ xa xôi nghèo nàn rách nát này? Cũng do sự giáo huấn trong gia đình nên chúng tôi chưa bao giờ ngửa tay để xin!
Những danh từ "Việt Minh" chống Pháp, được người lớn mô tả kêu gọi lòng yêu nước, vài người trong xóm bỏ vào bưng. Lính Còm Măng Đô ruồng bố bắt người hảm hiếp và thủ tiêu. Giòng sông hiền hoà ven cánh rừng chà là xóm Đồng, cứ vài bữa dân chài lại chài được những cái xác trôi sông bị "mò tôm" trong bao bố, những cái thây không đầu do mã tấu cắt ngọt. Khi chị Năm tôi bỏ vào bưng kháng chiến, tôi bồi hồi xúc động với bài thơ của Quang Dũng.
Mẹ tôi anh có gặp đâu không?
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi cũng có thằng con bé dại
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông!
Tôi hoạ lại như sau:
Chị tôi anh có gặp đâu không?
Những xác dân quê ngập cánh đồng
Tôi thương lắm đàn em bé dại
Giòng sông hiền xác thả trôi sông!
Dòng thơ xót đau, hình ảnh chết chóc điêu tàn như một cuộn phim lần lượt thu vào trong một góc trí nhớ. Cái tuổi "ăn chưa no, lo chưa tới" . Nỗi băn khoăn thao thức đến với tôi rất sớm, và tôi thù ghét chiến tranh. Tôi biết mình không bình thường như những đứa trẻ khác!
Chị tôi
Lớn lên chị chửa lấy chồng
Chị theo kháng chiến má hồng hy sinh
Vì đâu mẹ chẳng chịu nhìn
Để thân xác chị phiêu linh nơi nào?
Cậu với má không cùng chung quan điểm về đời sống, mà tư tưởng thường chống đối nhau. Cậu thì muốn "cải tiến", má thì cứ muốn "bảo thủ". Theo cậu trai gái phải bình đẳng , biết tiến thân, tình thương của cậu bộc lộ qua cử chỉ chăm sóc, các con lầm lỗi cậu châm chế với nụ cười bao dung, chưa bao giờ cậu dạy con bằng roi vọt và chửi mắng. Trái lại tánh má cứng rắn, kín đáo, nghiêm khắc và lạnh lùng, mà nụ cười cũng hiếm hoi, nên chúng tôi ít dám gần người.
Cha tôi như bóng cây tùng
Cây che bóng mát núi rừng quê hương
Dây leo quấn quít yêu thương
Mẹ tôi cổ thụ bên đường lẻ loi...
Cậu má như hai thân cổ thụ mà chúng tôi là dây leo, chỉ dám quấn quít trên thân cây của cậu. Còn má dù đứng thật gần nhưng lại quá xa cách, chẳng dây nào dám bám lên. Tình thương của má chẳng bai giờ bộc lộ ra ngoài, dù bao quanh chồng con nhưng người thật cô đơn. Chúng tôi lớn lên với sự chăm sóc của người giữ trẻ, bà quản gia. Tuổi ấu thơ thiếu thốn tiếng ru êm đềm, bàn tay âu yếm dịu dàng nồng ấm của tình mẹ.
Chị Năm dù là gái quê, nhưng nhờ có cậu nên chị được quyền giao thiệp bạn bè, được làm đẹp từ son phấn đến y phục không thua gái thành thị. Chị hay được lối xóm mược đi dọn đám cưới liên miên. Đôi gót chân lúc nào cũng đỏ như son giống má. Chỉ trang điểm sơ qua, chị đẹp lộng lẩy, một hoa khôi của xóm Đồng. Tôi ngắm nhìn chị đẹp rực rở, thướt tha trong chiếc áo dài mà mơ ước, sau này lớn lên mình sẽ được như chị. Trong những người theo đuổi, có một sĩ quan đến dạm hỏi, nhưng chị không nhận lời cầu hôn.
Chị chơi thân với vợ anh Năm Lãnh xóm trên. Bác Chín, song thân chị Năm Lãnh người Long Điền, có xe lô chạy đường Sàigòn -Bà Rịa. Anh Năm Lãnh làm tài xế cho ba vợ, người chị lớn của chị Năm Lãnh là vợ chú Năm Hổ, dâu của chú Hai Đình Chơn. Chú Năm Hổ cũng lái xe cho ba vợ, lập thêm phòng nhì ở Sàigòn có thêm dòng con nữa.
Vào đầu năm 1953, đứa em gái út vừa được hơn tháng. Thừa lúc má vắng nhà chị bảo tôi trông em và coi chừng nhà, để chị đi xóm một chút, thế rồi chị bỏ nhà đi luôn! Vào thời điểm đó, phong trào chống Pháp lên cao độ, chị được tự do nên nhiễm "tư tưởng kháng chiến" bao giờ chẳng biết? Lời kêu gọi lòng yêu nước quá mãnh liệt, nhóm người trẻ trong đó có chị , quên hết gia đình đi theo Việt Minh vào bưng kháng chiến.
Vài tuần sau má về Long Điền tìm thầy bùa, vì về trể nên cửa đóng không qua được. Đêm ấy chị lén về thăm nhà lần đầu mà cũng là lần cuối cùng. Đến sáng hôm sau má về thì chị đã đi mất. Má giận vất lá bùa tuyên bố "từ chị".Bao nhiêu giận, bực tức má đổ lên đầu cậu. Cậu chỉ biết im lặng nhận lỗi "con hư tại cha" cho
êm cửa, êm nhà.
Vào tháng 5-1953, Tướng Henri Navarre, khi tới Việt Nam thay đổi chiến lược và toàn bộ chỉ huy tại cuộc chiến Đông Dương. Navarre ra lệnh rút tất cả đơn vị đồn bót về, và tạo lập một Binh Đoàn chủ lực lưu động có tiềm lực mạnh mẻ, hùng hậu hơn. kế hoạch vừa hoàn tất thì cùng lúc Võ Nguyên Giáp bao vây nhốt 18 Liên Đoàn và 10 Tiểu Đoàn Nhẩy Dù của Pháp tại 5 chiến trường lớn : Lưu vực sông Hồng- Điện Biên Phủ-Séno (Trung Lào)- Cao Nguyên và Luang Pralang (Thượng Lào).
Vào tháng 9-1953, vào một đêm khuya có người trong chiến khu về báo tin là chị Năm tôi đã chết, và gia đình nhận xác về chôn cất. Không một chút xót thương, không một giọt nước mắt.Má lạnh lùng tuyên bố:
-Tôi đã từ nó rồi! Nên không phải là con của tôi! Nó theo mấy ông thì là con của mấy ông! Muốn chôn hay muốn dập đâu tuỳ ý! Tôi không có đứa con ngổ nghịch đó!
Người báo tin sửng sốt trước câu trả lời của bà mẹ vừa mất đứa con. Họ chẳng biết phải tính cách nào, chỉ lẳng lặng bỏ đi. Cậu với má cãi nhau một trận rất lớn, tôi vẫn chưa quên câu nói nghiêm khắc lạnh lùng của má:
-Cũng tại ông hết! Cưng chìu con gái quá nên mới hư! Học khôn đâu không thấy mà thấy tai bay hoạ gió! Tội bất hiếu không thể tha thứ được. Cậu ôn tồn:
-Con dại thì lái chịu đòn! Nó đã chết rồi bà còn bắt tội làm chi!
Má cương quyết:
-Thứ con gái cứng đầu, cứng cổ! Cãi lời tui là hỗng phải con của tui! Nó là con gái cưng của ông! Nếu có thương thì ông mang xác nó về mà chôn!
Biết má nó lẩy, dù có thương con, cậu cũng chẳng dám trái ý. Lòng má sắt đá không ai lay chuyển nổi, chẳng ai dám nói vào để má tha tội cho chị. Người chị thây yêu của tôi qua đời ngày 10-9-1953 (âm lịch) mới 17 tuổi. Chị chết cho lý tưởng, cho quê hương, chết ngậm ngùi chẳng một dòng lệ tiếc thương, chẳng một nén hương tàn, chẳng một vành tang trắng.
Không nhận xác, không cúng, đó là hình phạt nặng nề nhất, như một"bản án" sắt thép của người cảnh cáo chúng tôi. Như sợ một chứng bệnh nguy hiểm, má đem tất cả quần áo, hình ảnh của chị ra đốt, ngọn lửa đã cắt đứt tình cảm, cắt đứt liên hệ , xoá hết dấu vết của chị. Chị bị gạt ra khỏi khung ảnh của gia đình, hình ảnh người chị xấu số mờ dần trong trí tôi rồi mất hút theo thời gian.
Vào tháng 9-1953, vào một đêm khuya có người trong chiến khu về báo tin là chị Năm tôi đã chết, và gia đình nhận xác về chôn cất. Không một chút xót thương, không một giọt nước mắt.Má lạnh lùng tuyên bố:
-Tôi đã từ nó rồi! Nên không phải là con của tôi! Nó theo mấy ông thì là con của mấy ông! Muốn chôn hay muốn dập đâu tuỳ ý! Tôi không có đứa con ngổ nghịch đó!
Người báo tin sửng sốt trước câu trả lời của bà mẹ vừa mất đứa con. Họ chẳng biết phải tính cách nào, chỉ lẳng lặng bỏ đi. Cậu với má cãi nhau một trận rất lớn, tôi vẫn chưa quên câu nói nghiêm khắc lạnh lùng của má:
-Cũng tại ông hết! Cưng chìu con gái quá nên mới hư! Học khôn đâu không thấy mà thấy tai bay hoạ gió! Tội bất hiếu không thể tha thứ được. Cậu ôn tồn:
-Con dại thì lái chịu đòn! Nó đã chết rồi bà còn bắt tội làm chi!
Má cương quyết:
-Thứ con gái cứng đầu, cứng cổ! Cãi lời tui là hỗng phải con của tui! Nó là con gái cưng của ông! Nếu có thương thì ông mang xác nó về mà chôn!
Biết má nó lẩy, dù có thương con, cậu cũng chẳng dám trái ý. Lòng má sắt đá không ai lay chuyển nổi, chẳng ai dám nói vào để má tha tội cho chị. Người chị thây yêu của tôi qua đời ngày 10-9-1953 (âm lịch) mới 17 tuổi. Chị chết cho lý tưởng, cho quê hương, chết ngậm ngùi chẳng một dòng lệ tiếc thương, chẳng một nén hương tàn, chẳng một vành tang trắng.
Chị tôi xác lấp chiến hào
Hay trên rừng núi nghẹn nào hồn oan
Quanh năm chẳng nén hương tàn
Chẳng người nhỏ lệ hồn oan ngậm ngùi
Hỏi người có biết chị tôi
Thi hài bạc mệnh chôn vùi nơi nao?
Không nhận xác, không cúng, đó là hình phạt nặng nề nhất, như một"bản án" sắt thép của người cảnh cáo chúng tôi. Như sợ một chứng bệnh nguy hiểm, má đem tất cả quần áo, hình ảnh của chị ra đốt, ngọn lửa đã cắt đứt tình cảm, cắt đứt liên hệ , xoá hết dấu vết của chị. Chị bị gạt ra khỏi khung ảnh của gia đình, hình ảnh người chị xấu số mờ dần trong trí tôi rồi mất hút theo thời gian.
Lính Còm Măng Đô ruồng bố náo động cả xóm, cậu bị bắt với cái tội "con làm cha chịu" .Ngoài cậu, anh Tư Dận, chú Tư Trò, chú Sáu Ai, trong xóm khoảng trên 40 mươi người là ít.
Gia đình tôi buồn hiu như có đám tang, hôm đó chúng tôi nghĩ học, mỗi đứa ngồi một góc không chạy nhảy nô đùa như mọi ngày. Bên bàn trà cậu hay ngồi buổi sáng, cái ghế thiếu cậu trông buồn thiu, cạnh đấy má ngồi chống cằm rầu rĩ. Từ hôm chị chết đi, mọi người không dám nhắc tên chị, cậu bị bắt làm má càng giận chị nhiều hơn. Sự lo sợ của má đã tới . Chúng tôi không dám đứng gần người vì sợ má giận bất tử. Cảnh vui đùa êm ấm không còn nữa, áng ây u ám bắt đầu che xuống gia đình.
Trống trường chúng bạn ra chơi
Em lau nước mắt lệ rơi ngập ngừng
Thấy cha em chẳng dám mừng
Đoàn tù lê nước mịt mùng tương lai
Bên kia cha bị tù đày
Bên này con học cho ngày mai sau
Bên kia cha bị tù đày
Bên này con học cho ngày mai sau
Mỗi ngày đến trường, tôi phải đi ngang cái khám đường đó. Tôi nín thở rảo bước theo anh thật nhanh, tôi sợ người gác tù có gương mặt lạnh tanh, sợ cái khám đường rêu phong với vách đá thật cao. Trong khi các bạn vô tư vui đùa, còn tôi chỉ biết ướt mắt nhìn đoàn tù đi qua, nhất là gần giờ chào cờ. Tôi xót xa nhìn người cậu thân yêu với đoàn tù đang thất thểu như những bóng ma, trong xiềng xích bước từng bước đến ngõ cụt của tương lai.
Họ là những người tù bị hàm oan bởi tình nghi, hoặc có thân nhân đi kháng chiến. Có nhiều người không chịu nổi tra tấn mà nhận tội, họ đau nên khai lung tung. Họ không được đưa ra xét xử nên không có bản án là tội gì và phải ngồi tù bao nhiêu năm? Người ưu tiên là người theo đạo. Tôi đã nhận thức được sự bất công từ gia đình đến xã hội.
Học đường buồn bã kề bên
Lời cô giáo giảng bỗng quên đầu bài
Nhiều khi cứ bị phạt hoài
Ngồi trong lớp học tâm bay bềnh bồng...
Từ một học sinh hạng khá, được lãnh phần thường cuối năm, trong đó có cuốn Liêu Trai Chí Dị. Biến cố gia đình đã ảnh hưởng nặng đến việc học. Ngồi trong lớp học tôi hay ưu tư, học đâu quên đó, tâm cứ nghĩ vơ vẩn mà hồn thì ở bên khám đường. Chẳng ai hiều được tinh thần tôi đang khủng hoảng, bởi cảnh bắt bớ, thù tiêu. Tâm ở đâu mà học, trí ở đâu mà nhớ. Hình ảnh của cậu, của những người tù đã chiếm đầy cứng trong đầu, chẳng còn chổ để nhét mấy bài toán đố. Mỗi lần nghe tiếng thét của người tù bị tra khảo vọng sang, tôi hình dung ra cậu đang chịu đòn, tim tôi đau nhói, bao nhiêu lời giảng của cô giáo Nhân bỗng trôi vào khoảng không. Tiếng thét đó làm tay cô giáo Nhân run run.
Chị Hai Cấm, người chị cùng cha khác mẹ, có lẽ sợ cảnh "mẹ ghẻ con chồng", nên ông bà nội đi đánh bài cũng dắt chị theo. Tôi không biết má có hà khắc chị không? mà chị rất sợ má. Tôi thương chị mà không phân biệt, không chanh chua như hai chị em Tấm Cám. Nghe kể là một lần chị đi xem hát, bà bầu thấy chị xinh đẹp mới rủ chị đi gánh hát, chị ham vui nên hứa đại, còn nghe lời bà bầu lại bàn thờ tổ bái hứa đi theo nghề hát. Khi gánh hát dọn đi, ông bà nội biết nên cấm cửa. Thời gian sau chị lên cơn điên, chị không phá phách ai, chỉ mặc quần áo như hát bội và nghêu ngao ca hát.
cầu sông Dinh- Bà Rịa
Cầu đưa em đến khám đường
Thăm cha tù tội mà thương, mà buồn
Hắt hiu bóng nhỏ trong sương
Bước trong lặng lẽ buồn vương qua cầu
Sáng cuối tuần, tay xách, nách mang, má bước đi trong im lặng. Tôi bồng em nối bước theo sau, lặng lẽ bước qua cầu sông Dinh. Cầu đưa tôi đến trường, đến nhà tù thăm cậu. Giòng sông Dinh suốt đời chịu đựng tất cả dơ bẩn của loài người vất xuống, chẳng lấy một lời than van oán trách. Má như giòng sông kia vẫn chịu đựng, mà trên đôi vai cái gánh nặng làm lưng người còm xuống. Dù má nghiêm khắc, độc đoán, nhưng tôi nhận ra lòng hy sinh vô bờ, vì chồng, vì con của người. Má phải vất vả , vật lộn với sinh kế bởi đàn con quá đông, lại phải nuôi chồng trong vòng lao lý.
Đỏ xanh... xanh đỏ quanh người
Nghêu ngao chị hát những lời vu vơ
Lang thang ngủ bụi ngủ bờ
Khi thì góc chợ, dật dờ như ma
Ông bà nội chạy đủ thứ thầy nhưng không hết, sau này chị bớt mới gả chồng bên đạo, hy vọng nhờ rửa tội chị sẽ hết điên. Nhưng mỗi lần sanh cơn điên lại tái phát, bì bị bệnh tâm thần nên 2 đứa con trước phải cho vô cô nhi viện. Mấy đứa con sau còn lại được là nhờ bà nội giữ lại nuôi.
Cũng nhờ chồng chị là Cảnh Sát nên má dễ dàng thăm nuôi cậu hơn những người tù khác. Những người trong xóm thường đến nhờ má mang dùm đồ cho thân nhân, nên lúc nào má cũng phải mang thật nhiều đồ thăm nuôi. Mỗi cuối tuần tôi đều phải bế em theo má thăm nuôi, thỉnh thoảnh anh Tám với Thanh mới được đi theo.
Bế em theo mẹ thăm cha
Nhìn lằn tra tấn trên da tím bầm
Chẳng lời trách chị lỗi lầm
Có đau cha chỉ đau thầm mà thôi
Mới có mấy tuần mà cậu thay đổi toàn diện, thân thể tráng kiện ngày nào giờ trông bệnh hoạn xanh xao. Tóc ngả mầu muối tiêu, trán xếp ly nhiều hơn , thảo nào mà người ta thường bảo "chỉ một đêm lo nghĩ, tóc sẽ bạc trắng như Ngủ Tử Tư" . Cái áo tù thì nhăn nhúm như các dấu tra tấn dọc ngang ẩn trong lớp áo. Đứa em gái nó bập bẹ gọi cậu rồi vói tay qua , nhưng bị vướng cái hàng rào, nó đâu hiểu rằng cậu không thể vượt ra cái hàng rào ấy.Tôi lớn lên luôn bị ám ảnh cái hàng rào thép kẻm gai. Cũng có một thời, tôi là đứa bé gái có mái tóc bum bê đứng sau làn thép kẻm gai đó.
Người cha thân yêu, chưa lần mắng các con, chưa lần cho con roi vọt, chưa lần say xỉn mắng chửi thô tục với vợ con, chưa lần làm mích lòng hàng xóm. Chỉ vì đứa con gái đi kháng chiến mà liên luỵ đến người. Dù bị tra tấn, nhưng cậu chẳng bao giờ nói hay than đau nhức , chẳng một lời trách cứ hay giận chị tôi. Dù không nói ra nhưng tôi hiểu cậu đã "tha thứ" cho chị, người con gái thân yêu vắn số.
Tuổi thơ còn được những gì
Tự do, tù ngục, chia ly đoạ đày
Tay ôm cặp gỗ trên tay
Qua nhà giam lệ bỗng đầy mắt em
Tôi sợ nhất là giờ ra về, sợ tiếng kẻng báo tin giờ thăm tù đã hết, sợ tiếng khóc giã biệt. Chẳng biết sau cánh cửa tù ấy, sinh mạng người thân yêu còn kéo dài bao lâu nữa? Biết lần thăm sau có còn gặp lại không? Rồi một hôm, tôi đứng trong sân trường đợi mãi mà không thấy họ dẫn cậu đi qua. Người anh rể sang báo tin là họ đã chuyển một số tù ra trại tù ngoài Ô Cấp (Vũng Tàu), mà trong đó có cậu. Tôi không nhớ là trại tù nằm ở đường nào?
Cứ vài tuần má lại bồng chống ra thăm nuôi. Tù cho học nghề , và không bị kiểm soát gắt gao như trong trại tù Bà Rịa. Bốn anh em chúng tôi là anh Tám Búp, Mười Thanh, tôi và đứa em út được ở lại với cậu buổi trưa và được ăn cơm tù, và được chụp hình với cậu. Trong hình tôi ôm chiếc cặp gỗ cẩm lai , món quà mà cậu đã làm cho tôi trong tù. Chỉ mình tôi có quà, nhưng mấy anh em không ai ganh tị.
Từ đó trong lớp, tôi là đứa học trò "kỳ dị" nhất như cái tên của mình. Tôi không ngại bị các bạn chế diễu, mà hãnh diện vì món qùa biểu lộ tình thương cậu dành cho tôi. Có lẽ cậu muốn an ủi vì thừa biết má sẽ không dễ dãi với con gái nữa. Ôm chiếc cặp mà tưởng tượng cậu vẫn một bên che chở, đở nâng khi tôi vấp ngả. Mỗi khi đi ngang qua khám đường, ôm chiếc cập mà nhớ cậu còn đang trong vòng tù tội. Chúng tôi những đứa trẻ biết an phận, không mơ ước cái cặp da, hay giầy dép đắt tiền, mà bằng lòng với cái cặp đệm, đôi guốc vông quai nhựa rẻ tiền, được đi học là một điều hạnh phúc.
Trong gia đình anh em thương yêu nhau, xưng hô có tôn ti trật tự, chẳng xưng "tao mầy" với nhau. Anh Tám Búp học trên tôi một lớp, Mười Thanh thì dưới tôi một lớp, nó học với thầy giáo Lý, có tiếng là đánh học trò rất nặng tay. Mỗi khi thầy vào nhà thăm cậu, nó sợ thầy nên trốn mất. EmThanh thì quá hiền lành nên thường bị chúng bạn ăn hiếp. Tôi không thèm đi trình với thầy mà tự mình giải quyết. Tôi không thèm nhờ anh Tám mà đơn thân độc mã, làm anh hùng rơm ra oai đòi cạch cả đám con trai. Từ đó tụi nó hết dám ăn hiếp em nữa. Tôi thương em, biết nhường nhịn và sẳn sàng bảo vệ, che chở cho em.
Má tôi một mẫu người đàn bà đảm đang, giỏi chịu đựng, cứng rắn và can đảm. Dù lao nhọc buồn khổ cách mấy, người chẳng bao giờ than van trước mặt chúng tôi. Từ ngày cậu đi tù, một mình người xoay trở lèo lái thật gian nan. Thời buổi loạn ly, cuộc sống khó khăn, người "thắt lưng buột bụng" để chúng tôi còn được đến trường, quần áo còn lành lặn, chưa phải ăn cơm độn với khoai.
Cứ vài tuần má lại bồng chống ra thăm nuôi. Tù cho học nghề , và không bị kiểm soát gắt gao như trong trại tù Bà Rịa. Bốn anh em chúng tôi là anh Tám Búp, Mười Thanh, tôi và đứa em út được ở lại với cậu buổi trưa và được ăn cơm tù, và được chụp hình với cậu. Trong hình tôi ôm chiếc cặp gỗ cẩm lai , món quà mà cậu đã làm cho tôi trong tù. Chỉ mình tôi có quà, nhưng mấy anh em không ai ganh tị.
Từ đó trong lớp, tôi là đứa học trò "kỳ dị" nhất như cái tên của mình. Tôi không ngại bị các bạn chế diễu, mà hãnh diện vì món qùa biểu lộ tình thương cậu dành cho tôi. Có lẽ cậu muốn an ủi vì thừa biết má sẽ không dễ dãi với con gái nữa. Ôm chiếc cặp mà tưởng tượng cậu vẫn một bên che chở, đở nâng khi tôi vấp ngả. Mỗi khi đi ngang qua khám đường, ôm chiếc cập mà nhớ cậu còn đang trong vòng tù tội. Chúng tôi những đứa trẻ biết an phận, không mơ ước cái cặp da, hay giầy dép đắt tiền, mà bằng lòng với cái cặp đệm, đôi guốc vông quai nhựa rẻ tiền, được đi học là một điều hạnh phúc.
Trong gia đình anh em thương yêu nhau, xưng hô có tôn ti trật tự, chẳng xưng "tao mầy" với nhau. Anh Tám Búp học trên tôi một lớp, Mười Thanh thì dưới tôi một lớp, nó học với thầy giáo Lý, có tiếng là đánh học trò rất nặng tay. Mỗi khi thầy vào nhà thăm cậu, nó sợ thầy nên trốn mất. EmThanh thì quá hiền lành nên thường bị chúng bạn ăn hiếp. Tôi không thèm đi trình với thầy mà tự mình giải quyết. Tôi không thèm nhờ anh Tám mà đơn thân độc mã, làm anh hùng rơm ra oai đòi cạch cả đám con trai. Từ đó tụi nó hết dám ăn hiếp em nữa. Tôi thương em, biết nhường nhịn và sẳn sàng bảo vệ, che chở cho em.
Má tôi một mẫu người đàn bà đảm đang, giỏi chịu đựng, cứng rắn và can đảm. Dù lao nhọc buồn khổ cách mấy, người chẳng bao giờ than van trước mặt chúng tôi. Từ ngày cậu đi tù, một mình người xoay trở lèo lái thật gian nan. Thời buổi loạn ly, cuộc sống khó khăn, người "thắt lưng buột bụng" để chúng tôi còn được đến trường, quần áo còn lành lặn, chưa phải ăn cơm độn với khoai.
Cuộc di cư 1954
Trận Điện Biên Phủ khởi đầu vào ngày 13-3-1954, kết thúc ngày 7-5-1954. Cuộc chiến thắng Điện Biên Phủ đã gián tiếp lật đổ chánh phủ của Thủ Tướng Pháp Joseph Laniel. Hiệp định ký kết thoả ước ngưng chiến vào ngày 20-7-1954. Chỉ có hai phe ký vào bản hiệp định: Tổng Tư Lệnh Quân đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương do Tướng Elteil đại diện, và Bộ Tổng Tư Lệnh Quân đội Việt Minh do Tạ Quang Bữu đại diện. Quân đội Pháp rút lui toàn bộ khỏi Hà Nội ngày 9-10-1954. Vũng Tàu là nơi Quân đội Pháp tập trung kiểm kê quân về nước .
Minh Ước Liên Phòng Đông Nam Á ra đời ngày 9-9 1954 gồm các hội viên: Hoa Kỳ-Anh- Pháp- Úc Đại Lợi- Tân Tây Lan- Hàn Quốc- Thái Lan- Phi Luật Tân- Việt Nam Cộng Hoà- Lào- Cam Bốt.
Miền Bắc thuộc chế độ Cộng Sản, do Hồ Chí Minh lãnh đạo, thực thi Xã Hội Chủ Nghĩa là cuộc cải cách ruộng đất năm 1955. Địa chủ bị đấu tố, bị hành quyết và lớp đưa đi cải tạo.
Miền Nam thuộc chánh thể Quốc Gia, do Ngô Đình Diệm được cựu Hoàng Bảo Đại mời về nước chấp chánh ngày 7-7-1954. Tướng Mỹ E.G Landale được gửi sang vào tháng 6-1954, và J.L Collins được gửi sang vào tháng 12-1954, cố vấn cho chính phủ Nam Việt Nam. Ngoại trưởng Mỹ là John Foster Dulles từ năm 1954-1956, ông qua đời năm 1959.
Viễn chinh Pháp về nước
Minh Ước Liên Phòng Đông Nam Á ra đời ngày 9-9 1954 gồm các hội viên: Hoa Kỳ-Anh- Pháp- Úc Đại Lợi- Tân Tây Lan- Hàn Quốc- Thái Lan- Phi Luật Tân- Việt Nam Cộng Hoà- Lào- Cam Bốt.
Miền Bắc thuộc chế độ Cộng Sản, do Hồ Chí Minh lãnh đạo, thực thi Xã Hội Chủ Nghĩa là cuộc cải cách ruộng đất năm 1955. Địa chủ bị đấu tố, bị hành quyết và lớp đưa đi cải tạo.
Miền Nam thuộc chánh thể Quốc Gia, do Ngô Đình Diệm được cựu Hoàng Bảo Đại mời về nước chấp chánh ngày 7-7-1954. Tướng Mỹ E.G Landale được gửi sang vào tháng 6-1954, và J.L Collins được gửi sang vào tháng 12-1954, cố vấn cho chính phủ Nam Việt Nam. Ngoại trưởng Mỹ là John Foster Dulles từ năm 1954-1956, ông qua đời năm 1959.
Sông Bến Hải- cầu Hiền Lương
Giòng sông Bến Hải đau thương
Cây cầu định mệnh Hiền Lương nghẹn ngào
Từng đoàn xe nối đuôi nhau
Bắc, Nam chia cắt xanh xao hai miền
Giòng sông Bến Hải đau thương
Cây cầu định mệnh Hiền Lương nghẹn ngào
Từng đoàn xe nối đuôi nhau
Bắc, Nam chia cắt xanh xao hai miền
Con sông Bến Hải là vĩ tuyến 17, chia cắt bởi cây cầu Hiền Lương. Từng đoàn xe ồ ạt chở 900.000, di cư vào Nam. Họ ra đi bỏ tất cả gia tài, mồ mả tổ tiên. Trong số 900.000 dân, hết 700.000 là Công Giáo . Họ được đưa qua Cái Sắn- Bình Tuy- Long Khánh-Định Quán, đảo Phú Quốc- Gia Kiệm-Hố Nai- Ban Mê Thuộc- Ngã ba Ông Tạ- Tân Bình- Gò Vấp...
Dọc theo chân núi Dinh "xóm đạo di cư" mọc lên và cây thánh giá cũng được đóng trên ngọn núi Dinh. Làn sóng di cư đưa vào Nam những cái áo tứ thân, khăn mỏ quạ. Những loại rau miền Bắc, nhất là rau muống mà trước kia người Nam chỉ cho heo ăn, dần dần được người Nam biết đến. Trong vườn rau người Nam ngoài rau tía tô, hún lủi, hún cây, ngò gai, quế, giờ thêm rau kinh giới, thì là, rau đay.... sống chung hoà bình. Các món ăn như: phở, bún riêu, bún than- bún thịt nướng... làm thực đơn càng phong phú hơn. Món thịt cầy (chó) xâm nhập vào thị trường miền Nam từ đó, nổi tiếng nhất là chợ thịt cầy ông Tạ.
Người Nam thì gồng gánh, người Bắc quen đội trên đầu, đàn bà lớn tuổi vẫn còn răng nhuộm đen và tóc vấn, tiền bạc họ cất kỷ trong cái ruột tượng. Phụ nữ Lào Kay mặc váy đen dài đến chân, Người Nam gọi là cái thúng thủng hai đầu.
Trong lớp học có thêm nguyễn Thị Kim Dung, Vũ Thị Thảo, và Nguyễn Bá Ái anh của Kim Dung học lớp anh Tám Búp, nhà Kim Dung gần dinh tỉnh trưởng.
Người Nam thì gồng gánh, người Bắc quen đội trên đầu, đàn bà lớn tuổi vẫn còn răng nhuộm đen và tóc vấn, tiền bạc họ cất kỷ trong cái ruột tượng. Phụ nữ Lào Kay mặc váy đen dài đến chân, Người Nam gọi là cái thúng thủng hai đầu.
Trong lớp học có thêm nguyễn Thị Kim Dung, Vũ Thị Thảo, và Nguyễn Bá Ái anh của Kim Dung học lớp anh Tám Búp, nhà Kim Dung gần dinh tỉnh trưởng.
Còn cha lêu lõng rong chơi
Mất cha mới biết cuộc đời mồ côi
Bùn non lấm gót chân tôi
Suốt ngày lặn lội mặc trời nắng mưa
Khi hiệp định Genève ký kết xong, cậu với những người tù cùng xóm được thuyên chuyển xuống Năm Căn (Cà Mau), để trao đổi tù binh. Tất cả tù đều được trả tự do. Gia đình vui mừng đoàn tụ, cậu đã về chúng tôi không còn khốn khổ nữa. Má bớt gắt gỏng, tôi với anh Tám Búp được cậu cho vào đoàn hướng đạo.
Hướng đạo do thầy Huỳnh Văn Sáng, dạy lớp nhì B của trường Nam tỉnh lỵ đào tạo. Anh Tám Búp mặc áo sơ mi ngắn tay, hai túi, quần kaki ngắn mầu xanh navy, khăn quàng, lưng thắt nịch, giầy ba ta trắng, nón rộng vành có 3 ngấn, mang huy hiệu "sói con". Cuối tuần anh hay theo đoàn hướng đạo tập ca hát, học ám hiệu cờ, thắt nút, cứu thương, đốt lửa trại... Mỗi ngày trên đường đến trường anh hay nghêu ngao hát bài Sói Con, Bạch Đằng Giang, Thanh Niên... Tôi cũng tề chỉnh trong bộ đầm mới tinh khôi, áo sơ mi trắng tay phùn, khăn quàng cổ, đôi giầy ba ta cáo cạnh trắng nuốt, váy mầu xanh navy, anh Tám Búp trêu là cái "bùn rền".
Mấy chiếc xe cam nhông nối đuôi nhau, vang tiếng hát hợp đoàn của đoàn hướng đạo lồng lộng bay trong gió. rộn rả vui tươi hồn nhiên của tuổi trẻ đầy sức sống. Cấm trại ở bãi biển Nước Ngọt cách Long Hải 4 cây số. Xe chạy trên con đường nhựa quanh co giữa rừng cây âm u, nhiều khu vườn ẩn hiện những biệt thư xinh xắn. Qua khỏi đường này, con đường uốn cong theo bờ biển, một bên là núi cao, một bên là biển cả với sóng bủa rạt rào. Bãi không lớn lắm nhưng rất xinh và nên thơ, có quán bán thức ăn, rất ít biệt thư, bãi rất vắng thật yên tỉnh.
biển Long Hải (Bà Rịa)
Dù có thầy cô đứng chặn vòng ngoài, tôi vẫn bị sóng biển cuốn ra xa, số còn dài nên sóng mang trả tôi vài bãi cát, sau khi đã nốc vào bụng hết một mớ nước mặn nó nốc. Từ hôm đó tôi sợ biển, cảm thấy dưới đáy biển là một thế giới kỳ bí mà mình không thể thấy được.
Sau màn tắm biển thì tới màn tự túc nấu cơm. Ăn xong thì qua suối nước nóng Bình Châu. Suối nằm về phía Bắc đường liên tỉnh 23 (Phước Lễ-Hàm Tân), khoảng cây số 47, có ngả rẽ vào suối cách Phước Lễ 50 cây số. Suối nước nóng gồm nhiều hồ nước nhỏ . Trung tâm suối là một hồ nước nóng hình chữ nhật rộng khoảng 50 m vuông, quang năm nước sôi lên tim, bốc lên hơi nóng đến 70 độ bách phân, tràn rĩ rả chảy ra hồ, theo lòng lạch từ hồ này đến hồ khác. Dù nóng đến cao độ, chung quang suối cây vẫn xanh tươi, và tại miệng suối nhiều loại qua rừng có dại trông thật đẹp nhưng có vẽ âm u kỳ bí.
Năm 1955(Ất Mùi) . Cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23-10-1955, mục đích truất phế cựu Hoàng Bảo Đại, chấm dứt triều đại vua chúa. Khi Nguyễn Ánh xưng hoàng đế năm 1802, qua 13 vị hoàng đế, cho đến nắm 1945 khi Bảo Đại Nguyễn Vĩnh Thuỵ thoái vị, tính ra được 143 năm. Ngược dòng lịch sử , từ thời chúa Nguyễn vào Hoành Sơn dung thân vào khoảng năm 1558, thì sự nghiệp nhà Nguyễn gần 400 năm bị tiêu diệt.
Vị vua thứ 13, cuối cùng của triều Nguyễn
Vua BẢO ĐẠI NGUYỄN VĨNH THUỴ
Vua Bảo Đại sanh ngày 22-10-1913, con số 13 Định Mệnh. Mất ngày 31-7-1997. Là vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam. Ngày lễ đăng quang chánh thức là 10-9-1932. Thoái vị ngày 30-8-1945.
vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương
Tổng Thống Ngô Đình Diệm sinh ngày 03-tháng 1 năm 1901 tại làng Đại Phong, huyện Lệ Thuỷ ,tỉnh Quảng Bình, con của cụ Nhiếp Canh Đại Thần Ngô Đình Khả và cụ bà Phạm Thị Thân. Tổng Thống là người con thứ 3 trong gia đình có 6 trai và 3 gái.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Sau khi ổn định khoảng 850.000 ngàn người di cư. Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉnh đốn xả hội như: bài trừ nha phiến, đóng cửa xóm mãi dâm Bình Khang, đóng cửa sòng bạc Kim Chung, và Đại Thế Giới ở Chợ Lớn.
Cuối năm 1954. Ngô Đình Diệm ra lệnh rút hết giấy phép kinh doanh các sòng bạc và ổ mãi dâm của Bảy Viễn. Ngày 15-2-1955, Diệm ra lệnh đóng cửa sòng bạc Kim Chung Đại Thế Giới.
Như sứ quân Đinh Bộ Lĩnh phải dẹp loạn 13 Sứ Quân. Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải là nhà chiến lược, có đủ mưu trí mới dẹp tan loạn sứ quân. Thời thế tạo anh hùng, những thành phần có quyền lực đã vì cá nhân mà làm giầu bất chính và thanh toán những ai chống đối mình.
Cuối năm 1954. Ngô Đình Diệm ra lệnh rút hết giấy phép kinh doanh các sòng bạc và ổ mãi dâm của Bảy Viễn. Ngày 15-2-1955, Diệm ra lệnh đóng cửa sòng bạc Kim Chung Đại Thế Giới.
Như sứ quân Đinh Bộ Lĩnh phải dẹp loạn 13 Sứ Quân. Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải là nhà chiến lược, có đủ mưu trí mới dẹp tan loạn sứ quân. Thời thế tạo anh hùng, những thành phần có quyền lực đã vì cá nhân mà làm giầu bất chính và thanh toán những ai chống đối mình.
Bảy Viễn tên thật là Lê văn Viễn, sinh năm Giáp Thìn (1904-1970), tại Phong Đước, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (nay là quận 8-Sàigòn). Cha là Lê Văn Dậu, người Hoa gốc Triều Châu. là một tên tướng cướp lừng danh trước năm1945, về sau tham gia tổ chức lực lượng vũ trang chống Pháp, sau ly khai trở về hợp tác với chính quyền Bảo Đại. Sau khi hợp tác với Pháp , Bảy Viễn được Tướng De la Tour gắn lon Đại tá. Năm 1952 , Bảo Đại phong cho Bảy Viễn cấp bậc Thiếu Tướng và bổ nhiệm vào chức Đô trưởng Cảnh sát Công an Sàigòn- Chợ Lớn.
dẹp loạn Bình Xuyên 1955
tảo thanh Bình Xuyên 1955
Bằng thế lực của mình, Bảy Viễn thâu tóm các sòng bài Đại Thế Giới (Casino Grand Monde), Kim Chung (Casino Cloche d'Or), đồng thời làm ngơ cho khu mại dâm Bình Khang hoạt động công khai. Năm 1955, Tổng Thống Ngô đình Diệm đóng cửa các sòng bài do Bình Xuyên điều hành, giải tán khu mại dâm Bình Khang, đồng thời tấn công quân Bình Xuyên và các giáo phái. Bảy Viễn lưu vong sang Pháp và qua đời năm 1970 tại Paris.
tảo thanh Bình Xuyên 1955
tảo thanh Bình Xuyên 1955
Trong Phật Giáo Hoà Hảo , chỉ có hai lực lượng chịu về hợp tác với chính phủ là lực lượng của Tướng Nguyễn Giác Ngộ và của Đại tá Nguyễn văn Huê, còn các lực lượng của Trần Văn Soái ((Năm Lửa), Ba Cụt và Lâm Thành Nguyên, đã đi theo Bình Xuyên chống chính phủ vì có sự hổ trợ của Pháp.
Tảo thanh Bình Xuyên 1955
Tướng Dương Văn Đức
Ngày 23-5-1955, chánh phủ cho thành lập Khu Chiến Miền Tây bao gồm ba khu Vĩnh Long, Cần Thơ và Sóc Trăng. Đại Tá Dương Văn Đức là Chỉ Huy Trưởng Phân Khu Sóc Trăng. Quân của Ba Cụt bị săn đuổi đã rút về vùng biên giới Việt- Miên. Trong khi đó, quân của Tướng Trần Văn Soái rút về Đồng Tháp Mười lập cơ sở mới với sự giúp đở của Pháp qua ngả biên giới Việt- Miên. Ngoài ra, hai đơn vị Cao Đài ly khai vẫn đang lẫn trốn, một hoạt động ở vùng Giồng thuộc Đồng Tháp Mười và một tại Châu Đốc.
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
Ngày 29-12-1955, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra lệnh chấm dứt chiến dịch Đinh Tiên Hoàng do Đại Tá Dương Văn Đức chỉ huy và thăng Đại tá Đức lên Thiếu tướng. Ngày 1-1-1956, ông Diệm cử Tướng Dương Văn Minh làm chỉ huy trưởng Chiến Dịch Nguyễn Huệ bình định miền Tây, nhằm thực hiện ba mục tiêu sau đây: Phong toả biên giới Việt-Miên từ Hà Tiên đến sông Vàm Cỏ, không cho loạn quân chạy sang;cắt đứt sự liên lạc của loạn quân giữa khu chiến miền Tây và khu chiến Đồng Tháp Mười; và thanh toán các lực lượng giáo phái ly khai, đặc biệt là lực lượng của Trần Văn Soái và Ba Cụt.
Tướng Dương Văn Minh- Nguyễn Ngọc Thơ
Quân chính phủ được chia ra làm 3, tiến vào Đồng Tháp Mười. Ngày 9-1-1956, đoàn quân của khu chiến Đồng Tháp và Sư đoàn 15 khinh chiến tảo thanh vùng Gò Bắc Chiên. Hai trung đoàn 43 và 44 theo sông Vàm Cỏ Tây tiến vào Bình Châu. Cánh quân thứ ba của Tướng Nguyễn Giác Ngộ và trung đoàn 42 từ Sa Đéc lên, bố trí chận đường của địch. Quân của Tướng Soái chỉ bỏ chạy. Quân của tướng Soái có 268 người bị giết và 3.750 về quy thuận. quân chính phủ mất 31 người và bị thương 98 người.
Ngày 17-2-1956, Tướng Soái mang quân ra quy thuận. Lễ tiếp thu lực lượng Trần Văn Soái được tổ chức long trọng tại Cái Vồn ngày 7-3-1956. Buổi lễ này đã chấm dứt cuộc đời hoạt động chính trị và quân sự của Tướng Trần Văn Soái. Sau buổi lễ, gia đình ông đã lên Sàigòn sống đời bình thường như những người dân khác. Sau đó ông đi Pháp và chết ở Pháp.
Ba Cụt (Lê Quang Vinh)
Loạn quân Ba Cụt (Lê Quang Vinh)
Sau Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng 2, Ba Cụt còn khoảng 2.000 quân, rút về hoạt động ở các khu Giồng Riềng (Rạch Giá), Ba Thê, Hà Tiên và Châu Đốc. Số quân còn lại của 4 Trung đoàn chủ lực như sau: Bắc tiến khoảng 200 quân, Nguyễn Huệ khoảng 200 quân, Lê Quang trên 300 quân và Lê Lợi khoảng 100 quân. Trong 4 Trung đoàn này, Trung Đoàn Lê Quang do Nguyễn Thời Rê chỉ huy được coi là thiện chiến nhất và được trang bị đầy đủ nhất. Ba Cụt là Tổng Tư Lệnh và Ba Bụng, tức Phan Công Cẩn, là Phó Tổng Tư Lệnh.
Chiến dịch thanh toán lực lượng Ba Cụt được chia nhiều giai đoạn. Kể từ ngày 5-1-1956. Sư Đoàn 11 nghinh chiến mở cuộc hành quân vào vùng Giồng Riềng để truy lùng 2 Trung Đoàn Lê Quang và Nguyễn Huệ. Tuy nhiên, vì cuộc hành quân tổ chức quá gấp rút, không nghiên cứu kỷ càng, thiếu phương tiện di chuyển, nên quân Ba Cụt chạy thoát gần hết. Nhưng ngày 8-1-1956 quân Ba Cụt đột nhập xóm Thầy Quân ở Cà Mau, bắt Thiếu Uý Bùi Quang Thừa và một số viên chức hành chánh đem ra mổ bụng. Ngày 10-1-1956. Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 36 do Đại Uý Trần Hữu Hạnh chỉ huy mở cuộc hành quân truy lùng địch bị lọt vào ổ phục kích bị thiệt hại rất nặng.
Ngày 13-1-1956, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 4 đã cho mở cuộc hành quân tiến vào Rạch Cần Thảo vì được tin Ba Cụt đang thu thuế lúa của dân. Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 12 đã tiêu diệt toàn bộ đại đội bảo vệ việc thu lúa.
Sau khi cuộc thương thuyết bất thành , vì những đói hỏi quá đáng nhất là khi lực lượng của Ba Cụt đang đến ngày tàn. Chấp nhận những đều kiện đó thì chẳng khác gì công nhận một quốc gia trong một quốc gia. "Bản điều kiện" cho thấy Ba Cụt không thật sự muốn thương thuyết mà chỉ coi như một kế hoản binh. Qủa thật , trong thời gian hưu chiến từ 26-3 đến mùng 6-4, Ba Cụt đã củng cố lại hàng ngũ và tái phối trí để tiếp tục cuộc chiến.
Riêng điều kiện buộc chính phủ phải công nhận Ba Cụt là Trung Tướng của Quân Đội Quốc Gia, cần nhắc lại những diễn biến sau đây: Ngày 20-8-1950 , Ba Cụt đã về hợp tác với Pháp lần thứ 4 và được gắn lon Thiếu Tá, nhưng sau đó ông lại ra đi. Tháng 11-1953. ông về hợp tác lần thứ 5 , ngày 1-12-1953, ông được Pháp gắn lon Đại Tá. Ngày 6-4-1956, ông Nguyễn Ngọc Thơ thông báo cho Ba Cụt biết "Bản điều kiện" của ông không được chính phủ chấp nhận.
Sau cuộc thương thuyết thất bại, ngày 8-4-1956, Bộ Tư Lệnh Chiến dịch Nguyễn Huệ cho 2 Trung Đoàn mở cuộc hành quân truy lùng Ba Cụt. Một Trung Đoàn bố trí trong khu Châu Phú Bắc để chận đường quân Ba Cụt chạy qua biên giới. Trung Đoàn 41 xuất phát từ quận Hồng Ngự mở cuộc tấn công vào Thường Phước, nơi có Bộ Tư Lệnh của Ba Cụt. Ba Cụt đã vượt được vòng vây, chạy về đến Chắc Cà Đao cách Long Xuyên khoảng 7 cây số.
Ngày tàn của loạn quân Ba Cụt (Lê Quang Vinh)
Đêm 13-4-1956, Ba Cụt và toán cận vệ đâm xuồng qua sông về phía Long Xuyên, ngang Vàm Chắc Cà Đao, cập bến gần đồn Bảo An Chắc Cà Đao, lên bộ, băng qua một thưở nhỏ ruộng nhỏ rồi lên lộ chính tiến về đồn Bảo An Chắc Cà Đao với sự tin tưởng rằng sẽ được các binh sĩ Bảo An trong đồn đón tiếp như những lần trước. Tất cả có 8 người đều mặc đồ đen, năm người mang súng trường. Ba Cụt mang súng lục, 2 người không mang súng. Khi họ đang từ từ tiến vế phía đồn thì binh sĩ phục kích hai bên lộ nhảy ra hô đưa tay lên và bắt trói lại, toán cận vệ của Ba Cụt không trở tay kịp.
Năm cận vệ mang súng tên là: Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Văn Thơ, Nguyễn Văn Tóc và Võ Văn Vĩnh. hai người phụ trách chèo đò không mang vũ khí là Phan Văn Hoành và Trần Tấn Hanh.
Toà Đại Hình xử sơ thẩm vụ Ba Cụt và đồng bọn được mở ra tại Cần Thơ ngày 11-6-1956. Gia đình Ba Cụt đã thuê 2 luật sư danh tiếng biện hộ cho Ba Cụt là Luật Sư Vương Quang Nhường,Thủ Lãnh luật sư đoàn Sài gòn, và Luật Sư Lê Ngọc Chấn, lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Bộ Trưởng Tư Pháp ông Nguyễn Văn Sĩ đã cử ông Huỳnh Hiệp Thành ngồi ghế Chánh Án, và ông Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Toà Sơ Thẩm Sài gòn ngồi ghế Công Tố Viện.
Ngày 14-6-1956, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ban hành Dụ số 33 cho phép thành lập Toà Thượng Thẩm Đại Hình đặc biệt tại Cần Thơ để tái thẩm. Bộ trưởng Tư Pháp cử ông Lê Văn Thụ làm Chánh Án và ông Lê Văn Tuấn ngồi ghế Công Tố Viện.
Ngày 26-6-1956, Toà thượng Thẩm Đại Hình tại Cần thơ đã họp và tái thẩm. Phiên toà kéo dài trong 2 ngày. Chỉ với 2 tội "phản loạn" và "dùng vũ lực chống lại Quân Đội Quốc Gia" . Toà tuyên bố y án của Toà Sơ Thẩm Đại Hình ngày 11-6-1956.
Ngày 4-7-1956, Toà án Quân Sự được thành lập tại Cần Thơ, do ông Vũ Tiến Tuân ngồi Chánh Án và Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân ngồi ghế Uỷ Viên Chính Phủ, để tiếp tục xét xử. Toà cũng tuyên án tử hình, tước đoạt binh quyền và tịch tài sản.
Sau khi đơn xin ân xá của Ba Cụt bị bác. Ba Cụt bị hành quyết tại nghĩa trang ở đường Hoà Bình, Cần Thơ, vào lúc 5 giờ 45 phút sáng ngày 13 tháng 7 năm 1956, bằng cách chém đầu. Lúc đó Ba Cụt mới 32 tuổi. Trước khi bị hành quyết, Ba Cụt có khuyên dặn vợ nuôi dạy các con cho nên người và xin được mai táng tại Núi Sam, Châu Đốc.
Sau khi Ba Cụt bị bắt, ngày 24-4-1956, Ba Bụng tức Phan Công Cẩn, Phó Tổng Tư Lệnh của Ba Cụt và một số quân sĩ khác bị bắn chết tại Châu Đốc. Sau đó, Nguyễn Văn Ca, Chính Trị Bộ Chủ Nhiệm của quân Ba Cụt bị bắt tại kinh Thần Nông và Dương Thế Xương, Đổng Lý Văn phòng của Ba Cụt bị bắt tại Mỹ Thuận, quân của Ba Cụt tan rả.
Ngày 31-5-1956, Chiến dịch Nguyễn Huệ chấm dứt. Qua chiến dịch Nguyễn Huệ, có 918 quân của ba Cụt, trong đó có 11 sĩ quan đã quy thuận. Loạn quân Tướng Trần Văn Soái (Năm Lửa) đã thức thời quy thuận trước nên cuối đời sống bình an cùng gia đình. Gây nhân thì có quả, mà cái quả lại quá bi thảm. Thắng làm vua, thua làm giặc câu nói ấy nghĩ lại không sai tí nào với trường hợp của Ba Cụt.
Nhờ thắng Bình Xuyên Tướng Dương Văn Minh được vinh danh "người hùng Rừng Sác" .
Trịnh Minh Thế
Thủ lĩnh Hắc Y (Cao Đài)
Trịnh Minh Thế sanh năm 1922 tại ấp Long Thuận, làng Trà Cao, quận Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh(nay là huyện Bến Cầu,Tây Ninh). Là con ông Trình Trung Vinh, tên tục là Trình Thành Quới. Trịnh Minh Thế có 10 anh em, kể cùng cha khác mẹ. Vợ Tướng Thế là bà Nguyễn Thị Kim, tên tục là Đức. Ông có 3 người con, trong đó có một người tên Trình Minh Nhật (là Thiếu Tá Không Quân của Việt Nam Cộng Hoà đệ nhị). Tổ phụ bốn đời họ Trịnh gốc Bình Định.
Do Pháp yêu cầu , ngày 6-6-1951, Phạm Công Tắc tổ chức lễ trao chức Tham Mưu Trưởng Quân đội Cao Đài cho Trịnh Minh Thế tại toà thánh.
Khi Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng trong chính quyền Bảo Đại, đã tổ chức một buổi lễ "Quân đội Cao Đài Liên Minh về hợp tác với Chính phủ Quốc Gia", vào ngày 13-2-1955. Đích thân Ngô Đình Diệm gắn hàm Thiếu Tướng cho Trịnh Minh Thế.
Ngày 3-5-1955 (sau biến cố trong Dinh Độc Lập 3 ngày) . Tướng Vỹ bị trục xuất sang Pháp tỵ nạn chính trị. Trịnh Minh Thế được cho là tử thương? Một cái chết đầy bí ẩn?
Mãi sau này, trong một tác phẩm của tác giả Jean Larteguy do nhà xuất bản Presses de la Cité , Paris ấn hành cho biết, Một cựu sĩ quan tình báo Pháp tên là Savani đã từng hoạt động tại Việt Nam trong thập niên 1950-1960, trước khi qua đời đã tự nhận là kẻ tổ chức ám sát Tướng Thế.
Trong tác phẩm này, Savani kể rằng đã cử một Trung Uý Pháp ẩn nấp dưới dạ cầu Tân Thuận dùng carbin bắn thẳng vào đầu Tướng Thế. Sau khi thực hiện xong nhiệm vụ, sát thủ ung dung rời vị trí, ra sân bay về Pháp an toàn. Cũng trong tác phẩm này, Savani cho biết, ông tổ chức thực hiện vụ ám sát này vì muốn rửa hận cho cái chết của Tướng Chanson.
Tuy nhiên con trai của Trịnh Minh Thế là Trình Minh Nhật phủ nhận lời tự thú của Savani. Ông Trình Minh Nhật khẳng định, 2 lỗ đạn trên thi thể "Tướng Thế chỉ có thể xuất phát từ họng súng rulo bắn sát bên chứ không thể từ súng carbin bắn từ hơn 10 m như Savani mô tả.
Chỉ về với quốc gia có 2 tháng mà Trình Minh Thế chết tức tưởi và bí ẩn. Thanh toán nhau vì quyền lực, không có việc chi mà họ không dám làm, dù phải hy sinh những người chung quanh, và người gây nhân phải nhận cái hậu quả thảm khốc.
Năm 1956, tỉnh Bà Rịa kết hợp với Vũng Tàu và quần đảo Trường Sa thành tỉnh Phước Tuy gồm các quận: Long Lễ, Đức Thành, Xuyên Mộc, Đất Đỏ, Long Điền, Vũng Tàu.
Vào thời đó Bà Rịa duy nhất chỉ có trường Tư Thục Sĩ Tải của ông Cử Hồ Đắc Thăng. Sau này trường bán công Châu Văn Tiếp ra đời do ông Đốc Nguyễn Văn Khổ thành lập vào năm 1956. Trường ra đời thật nghèo nàn chỉ có 2 lớp học, lợp bằng mái tôn, gần trường Nam tỉnh lỵ, có khoảng 40 học sinh. Đến năm 1957 thì dời về sân Vận Động, chỉ khá hơn một chút với dãy trường lợp ngói đơn sơ, sau này thêm một dãy ngang nữa tạo ngôi trường tành hình chữ L. Sân Vận Động dời về Giếng Nước gần sông Hàng.
Cô giáo Lê Minh Nguyệt chuyển về dạy Trung Học, cha cô là Tỉnh trưởng Lê Văn Khoái, dinh toạ lạc bên bờ sông Dinh, cách đình thần Long Hương một con sông. Cô có mẹ kế nên ở riêng, căn bỉa của dãy phố gần trường và gần dinh Tỉnh trưởng. Cô mang dôi kính cận thật dầy trông cô càng nghiêm nghị, cô thương học trò không đánh nhưng hay phạt bằng cách viết "bài phạt" đến mấy trăm câu, vì tội 1 đứa làm mà bị lây cả lớp. Tôi hay thun người xuống vì sợ cô gọi trả bài, dù học thuộc nhưng tại tánh đảng trí, các bạn có hỏi thì tôi bảo " tại qua cầu sông Dinh nên gió cuốn bay mất".
Năm 1959, thầy Huỳnh Văn Sáng chuyển qua chức vụ Tổng Giám Thị, thầy Lương Văn Cang là Trưởng Ty Giáo Dục. Lúc ấy bên trường nam, trường nữ thi đua nhau làm vườn, bên nam trồn g bắp , bên nữ ngoài giờ nữ công gia chánh còn chia ra 4 đội trồng rau. Vào thời đó những người quê vùng xa lên Bà Rịa ở trọ đi học như anh Ngô Văn Khanh quê Phước Lợi, ở trọ nhà bác Hai Giác, ba má chị Tốt, anh Thiệt. Nhà má cũng có một người bà con miệt Đất Đỏ đến ở trọ đi học một thời gian.
Bởi cậu ngồi tù nên anh Ba ngoài 20 mới lập gia đình, so ra muộn với vùng quê. Anh tướng cao ráo và đẹp trai giống cậu. Má đi dạm hỏi vài nơi nhưng bị từ chối bởi cùng họ Nguyễn. Ban đầu đi hỏi chị Thơm gốc người An Ngãi, ba má chị không gả. ba má chị có tiệp tạp hoá bên chùa , lối nhà bà Bạo, ông Năm Xuân có cây trôm thật to và tiệm hớt tóc. Chị Thơm có má kế. Khi nghe má đi dạm hỏi chị Kim con riêng bác Tám Tất, thì ba má chị Thơm lại bằng lòng gả, vì lỡ dạm hỏi trước nên má phải đi cưới.
Lúc chị về làm dâu không lâu thì má sanh thêm đứa con trai út, nhưng không nuôi được. Việc nhà giao cho chị Thơm phụ bà quản gia. Mỗi chiều đi học về chị hay bắt tôi vác mía và phụ công việc lặt vặt trong nhà. Tôi ham chơi bê trễ thì bị chị mắng, khi cho ăn thì "dằn mâm sáng chén". Tôi biết làm dâu cho má không dễ dàng gì, cho dù chị Thơm có đối xử tàn tệ , khi má hỏi tôi chối biến đi, nhưng chị cũng bị má rầy cho một trận. Từ đó cách cư xử đở hơn trước.
Đời sống an ninh hơi tạm yên, một vài nhà trong xóm sắm hát máy, má nghe nên đâm ghiền cải lương, tính đi mua nhưng bị cậu cản lại:
-Nhà đang yên hỗng muốn! Muốn rước cai thứ ma quỷ đó dìa! Chỉ nghe tiếng mà không thấy hình dạng đấu hêt! Bà mà mua dìa tui liệng xuống ruộng thì đừng có rủa!
Vì cậu không chịu nên má không đòi mua nữa, nhưng trong lòng hậm hực. Gia đình vui đoàn tụ chẳng bao lâu thì cậu ngã bệnh. Bà Rịa chưa có bệnh viện, chưa có bác sĩ, nên cậu phải nằm nhà nhờ y tá đến chích thuốc. Bệnh mỗi ngày càng nặng rổi nằm liệt giường , không đi đứng được nữa, chỉ còn đôi cánh tay cử động nhưng rất yếu. luôn luôn phải có người túc trực đở nâng, cho ăn, uống và tắm rửa... cậu bệnh chỉ trong 3 tháng mà chỉ còn da bọc xương, hai bên má hóp, đôi mắt trỏm lơ nằm xếp ve trên giường bệnh. Nét tinh anh vui tươi không còn nữa, đó là kết quả những ngày bị tra khảo trong tù, dù đau nhức nhưng cậu cắn răng chịu dựng không rên than.
Trừ khi đi học, tôi không còn được lang thang theo anh Búp rong chơi nữa, mà quanh quẩn bên giường cậu để sai bảo. Má thì phải ngồi lò làm bánh tráng, để nuôi cả gia đình và tiền thuốc than cho cậu.Bệnh kéo dài hơn cả năm, ngày nào đi chợ, bà quản gia cũng ráng kiếm cho được loại cá chét (lý ngư) thật tươi để nấu cháo.
Tôi thường nghe cậu thở dài, vầng trán cao hẳn thêm những vết nhăn, như cố dấu nỗi khổ tâm vì phải sống bám vào vợ con. cậu sống những ngày cuối đời chịu đựng, im lặng nhận tất cả lỗi về mình. Tôi mãi mãi không quên đôi mắt buồn não nùng đó, nó thăm thẳm như lòng biển sâu, chứa đựng niềm đau của cuộc đời, mà thân xác đang bị căn bệnh trầm kha hành hạ. Ánh mắt cậu nhìn tôi không còn sinh lực, đôi bàn tay ngày nào hay vuốt tóc tôi, giờ cũng lười biếng nằm im như cơ thể bạc nhược vì tê liệt. Cậu ít nói hơn, ít ăn hơn, nằm một chổ đợi chờ thần chết!!!...
Tôi vẫn không quên tiếng quạ kêu trên cây dầu phía sau nhà, nó chỉ kêu lên 3 tiếng rồi bay đi, làm má lo lắng. Cách 3 hôm sau thì cậu qua đời vào lúc 4 giờ sáng ngày 17 tháng 7 năm 1956 âm lịch, nhằm vào mùa Vu Lan.
Sông Dinh- Bà Rịa
Năm 1956, tỉnh Bà Rịa kết hợp với Vũng Tàu và quần đảo Trường Sa thành tỉnh Phước Tuy gồm các quận: Long Lễ, Đức Thành, Xuyên Mộc, Đất Đỏ, Long Điền, Vũng Tàu.
Vào thời đó Bà Rịa duy nhất chỉ có trường Tư Thục Sĩ Tải của ông Cử Hồ Đắc Thăng. Sau này trường bán công Châu Văn Tiếp ra đời do ông Đốc Nguyễn Văn Khổ thành lập vào năm 1956. Trường ra đời thật nghèo nàn chỉ có 2 lớp học, lợp bằng mái tôn, gần trường Nam tỉnh lỵ, có khoảng 40 học sinh. Đến năm 1957 thì dời về sân Vận Động, chỉ khá hơn một chút với dãy trường lợp ngói đơn sơ, sau này thêm một dãy ngang nữa tạo ngôi trường tành hình chữ L. Sân Vận Động dời về Giếng Nước gần sông Hàng.
Cô giáo Lê Minh Nguyệt chuyển về dạy Trung Học, cha cô là Tỉnh trưởng Lê Văn Khoái, dinh toạ lạc bên bờ sông Dinh, cách đình thần Long Hương một con sông. Cô có mẹ kế nên ở riêng, căn bỉa của dãy phố gần trường và gần dinh Tỉnh trưởng. Cô mang dôi kính cận thật dầy trông cô càng nghiêm nghị, cô thương học trò không đánh nhưng hay phạt bằng cách viết "bài phạt" đến mấy trăm câu, vì tội 1 đứa làm mà bị lây cả lớp. Tôi hay thun người xuống vì sợ cô gọi trả bài, dù học thuộc nhưng tại tánh đảng trí, các bạn có hỏi thì tôi bảo " tại qua cầu sông Dinh nên gió cuốn bay mất".
Năm 1959, thầy Huỳnh Văn Sáng chuyển qua chức vụ Tổng Giám Thị, thầy Lương Văn Cang là Trưởng Ty Giáo Dục. Lúc ấy bên trường nam, trường nữ thi đua nhau làm vườn, bên nam trồn g bắp , bên nữ ngoài giờ nữ công gia chánh còn chia ra 4 đội trồng rau. Vào thời đó những người quê vùng xa lên Bà Rịa ở trọ đi học như anh Ngô Văn Khanh quê Phước Lợi, ở trọ nhà bác Hai Giác, ba má chị Tốt, anh Thiệt. Nhà má cũng có một người bà con miệt Đất Đỏ đến ở trọ đi học một thời gian.
Bởi cậu ngồi tù nên anh Ba ngoài 20 mới lập gia đình, so ra muộn với vùng quê. Anh tướng cao ráo và đẹp trai giống cậu. Má đi dạm hỏi vài nơi nhưng bị từ chối bởi cùng họ Nguyễn. Ban đầu đi hỏi chị Thơm gốc người An Ngãi, ba má chị không gả. ba má chị có tiệp tạp hoá bên chùa , lối nhà bà Bạo, ông Năm Xuân có cây trôm thật to và tiệm hớt tóc. Chị Thơm có má kế. Khi nghe má đi dạm hỏi chị Kim con riêng bác Tám Tất, thì ba má chị Thơm lại bằng lòng gả, vì lỡ dạm hỏi trước nên má phải đi cưới.
Lúc chị về làm dâu không lâu thì má sanh thêm đứa con trai út, nhưng không nuôi được. Việc nhà giao cho chị Thơm phụ bà quản gia. Mỗi chiều đi học về chị hay bắt tôi vác mía và phụ công việc lặt vặt trong nhà. Tôi ham chơi bê trễ thì bị chị mắng, khi cho ăn thì "dằn mâm sáng chén". Tôi biết làm dâu cho má không dễ dàng gì, cho dù chị Thơm có đối xử tàn tệ , khi má hỏi tôi chối biến đi, nhưng chị cũng bị má rầy cho một trận. Từ đó cách cư xử đở hơn trước.
Đời sống an ninh hơi tạm yên, một vài nhà trong xóm sắm hát máy, má nghe nên đâm ghiền cải lương, tính đi mua nhưng bị cậu cản lại:
-Nhà đang yên hỗng muốn! Muốn rước cai thứ ma quỷ đó dìa! Chỉ nghe tiếng mà không thấy hình dạng đấu hêt! Bà mà mua dìa tui liệng xuống ruộng thì đừng có rủa!
Vì cậu không chịu nên má không đòi mua nữa, nhưng trong lòng hậm hực. Gia đình vui đoàn tụ chẳng bao lâu thì cậu ngã bệnh. Bà Rịa chưa có bệnh viện, chưa có bác sĩ, nên cậu phải nằm nhà nhờ y tá đến chích thuốc. Bệnh mỗi ngày càng nặng rổi nằm liệt giường , không đi đứng được nữa, chỉ còn đôi cánh tay cử động nhưng rất yếu. luôn luôn phải có người túc trực đở nâng, cho ăn, uống và tắm rửa... cậu bệnh chỉ trong 3 tháng mà chỉ còn da bọc xương, hai bên má hóp, đôi mắt trỏm lơ nằm xếp ve trên giường bệnh. Nét tinh anh vui tươi không còn nữa, đó là kết quả những ngày bị tra khảo trong tù, dù đau nhức nhưng cậu cắn răng chịu dựng không rên than.
Những ngày chịu đựng cuối đời
Niềm đau sâu kín chẳng lời thở than
Nhìn cha thân thể võ vàng
Mắt sâu thăm thẳm chứa ngàn đau thương
Tôi thường nghe cậu thở dài, vầng trán cao hẳn thêm những vết nhăn, như cố dấu nỗi khổ tâm vì phải sống bám vào vợ con. cậu sống những ngày cuối đời chịu đựng, im lặng nhận tất cả lỗi về mình. Tôi mãi mãi không quên đôi mắt buồn não nùng đó, nó thăm thẳm như lòng biển sâu, chứa đựng niềm đau của cuộc đời, mà thân xác đang bị căn bệnh trầm kha hành hạ. Ánh mắt cậu nhìn tôi không còn sinh lực, đôi bàn tay ngày nào hay vuốt tóc tôi, giờ cũng lười biếng nằm im như cơ thể bạc nhược vì tê liệt. Cậu ít nói hơn, ít ăn hơn, nằm một chổ đợi chờ thần chết!!!...
Tôi vẫn không quên tiếng quạ kêu trên cây dầu phía sau nhà, nó chỉ kêu lên 3 tiếng rồi bay đi, làm má lo lắng. Cách 3 hôm sau thì cậu qua đời vào lúc 4 giờ sáng ngày 17 tháng 7 năm 1956 âm lịch, nhằm vào mùa Vu Lan.
Mùa Ngâu tôi chít khăn tang
Mất cha tháng Bảy Vu Lan chợt buồn
Năm đó tôi được 11 tuổi, những năm gian khổ vào tù thăm nuôi cậu, cả năm dài bên giường cậu nuôi bệnh,đã làm tôi khôn trước tuổi. Tôi không còn mù mờ như lúc ông bà nội qua đời, tôi khóc vì ý thức cái bất hạnh của trẻ mồ côi cha. Lần đầu tiên tôi thấy má khóc.
Má mặc áo trái sống sổ gấu, đầu đội mũ tang vải sô. Chúng tôi chít khăn tang quỳ sau lưng má chật cả chiếc chiếu. Đường về quê cũ ngập tràn nước mắt. Cây cầu sông Dinh đưa tôi đến trường cho tôi mở mang trí tuệ, đưa tôi đến nhà tù thăm cậu, rồi cũng chính cây cầu này chúng tôi đưa cậu ra đi vình viễn. Tiếng khóc hoà với tiếng nhạc đám ma buồn ái não. Chúng tôi đã mồ côi cha như mấy chú gà con mất mẹ.
cầu sông Dinh- Bà Rịa
Giữa trời hứng nắng, hứng sương
Lẻ loi cổ thụ đau thương một mình
Xe tang qua lối sông Dinh
Áo tang trắng quá chữ tình buồn lây
Hai cây cổ thụ, giờ chỉ còn 1 cây đứng lẻ loi, đám dây eo sèo chẳng dám quấn quít thân cây còn lại, để cổ thụ đứng chơ vơ buồn, ngậm sương, hứng nắng một mình. Dù còn má, nhưng tôi thấy mất điểm tựa, tôi chợt hiểu nỗi mất mát vô bờ.
Mộ cậu được nằm cạnh ông bà nội , trong khu nghĩa trang gia đình, giáp ranh miễu bà Long An. Cậu đã yên mồ thì tương lai của chúng tôi cũng bắt đầu nơi khúc quanh tăm tối. Sau đám tang, má không khóc nữa, có những đêm khuya chợt thức giấc, tôi bắt gặp mà ngồi trầm ngâm suy tư ngay cái bàn cậu thường ngồi uống trà. Chẳng biết má thương nhớ cậu, hay đang lo lắng sinh kế để nuôi cả lũ con? Má goá bụa vào tuổi ngoài 40, vòng tay người vẫn khép kín theo năm tháng lạnh lùng!!!...
thân mẫu
Vòng tay mẹ vẫn lạnh lùng
Mẹ già trước tuổi ngập ngừng Xuân đi
Má hay đeo dôi bông tai vàng mù u, lúc nào cũng mặc những mầu u ám, nên trông người già trước tuổi. Trong nhà lúc nào cũng chiếc quần đen với cái áo túi trắng quanh năm, trừ khi phải ra đồng. Chưa lần thấy má mặc áo có bông hoa. Áo dài, áo bà ba thường mầu nâu hay xám, hoặc ve chai đậm.
Gia đình suy sụp từ lúc cậu ngồi tù, sau đó phải thuốc thang cho cậu hơn cả năm. Từ ngày cậu qua đời, cuộc sống chúng tôi đổi khác. Cuối tuần má bắt chúng tôi ra đồng thực tập công việc đồng áng, người lý luận rằng:
(Trong thời loạn, tụi con đứa nào cũng phải biết tự kiếm sống! Nếu vì loạn ly bị ly tán! Tụi con có thể tự nuôi lấy thân! Hãy nhớ lấy một điều nầy! Hãy giữ lòng tự trọng, nhân cách con người, đừng bao giờ ngửa tay ra mà xin!)
Má rất thực tế , dạy chúng tôi biết cách tự lập, huấn luyện chúng tôi như những tân binh. Trong khi lính tập bắn súng, tập trận. Anh Ba, anh Sáu lớn thì học cầy, học bừa, anh Tám thì phát cỏ, đấp bờ ruộng. Con gái phụ việc nhà, bếp núc...
(Trong thời loạn, tụi con đứa nào cũng phải biết tự kiếm sống! Nếu vì loạn ly bị ly tán! Tụi con có thể tự nuôi lấy thân! Hãy nhớ lấy một điều nầy! Hãy giữ lòng tự trọng, nhân cách con người, đừng bao giờ ngửa tay ra mà xin!)
Má rất thực tế , dạy chúng tôi biết cách tự lập, huấn luyện chúng tôi như những tân binh. Trong khi lính tập bắn súng, tập trận. Anh Ba, anh Sáu lớn thì học cầy, học bừa, anh Tám thì phát cỏ, đấp bờ ruộng. Con gái phụ việc nhà, bếp núc...
Còn cha lêu lõng rong chơi
Mất cha mới biết cuộc đời mồ côi
Bùn non lấm gót chân tôi
Suốt ngày lặn lội mặc trời nắng mưa
Lúc cậu còn sống, chúng tôi hay bị cậu bắt ngủ trưa, vì cậu sợ chúng tôi ra nắng bị bệnh. Giờ cậu đả qua đời, chẳng còn ai bắt ngủ trưa nữa, tay chân bắt đầu nếm mùi phèn chua, nước mặn. Tôi thấm thía câu "con không cha như nhà không nốc" . Má còn trẻ nên cũng có vài nơi ngấm nghé, nhưng người không chịu tái giá, có lẽ người sợ cảnh cha ghẻ chăng? Riêng chúng tôi không đứa nào phản đối nếu như má muốn bước thêm bước nữa.
Sau ngày cậu qua đời không lâu, bà quản gia xin thôi việc vì lớn tuổi. Đứa em gái út được bà nuôi từ thuở còn trong nôi, nên thương bà cứ khóc đòi theo. Chiều nào tôi cũng dẫn em đến nhà bà ngủ đêm. Mùa nắng tôi dẫn em đi tắt qua ruộng thiếm Tư Ngàn, mùa mưa đi ngõ nhà chú Bảy Kiếm, chú Hai Đổ. Từ phía trước nhà má, có thể nhìn thấy nhà bà chỉ cách mấy đám ruộng của thiếm Tư Ngàn. Nhà bà kề bên nhà bác Ba Đặng chuyên bó tay chân bị gẫy. Sau nhà bà trồng rất nhiều mía lau, khi mía lau ra bộng trắng phau như tóc bà quản gia, ruột mía lau cũng xốp, giống như thân thể ốm teo của bà.
Khi mùa mưa đi qua, hết công việc đồng áng thì má lại ngồi vào lò tráng bánh tráng làm dài dài đến Tết. Tôi phải đội bánh ra phơi, trông chừng khô đội vào, rồi gở và xấp đúng 10 cào thì làm dấu bằng lá chuối tướt ra, cực nhất là xây bột.
Anh Ba, anh Sáu hết việc đồng áng thì lên rừng đốn củi, đi chài, có khi đạp xe tới Phú Mỹ, ông Trịnh, Phước Hoà... Mấy anh người nào cũng biết lội, còn tôi tập bơi hoài nhưng lội 3 ngày mới nổi lên, thành ra khi qua sông lớn, tôi vịn vai để anh bơi qua sông. Anh Tám thì đi soi ếch, cắm câu đêm. Năn nỉ lắm một lần anh mới cho tôi đi theo, anh dẫn tôi vào cánh đồng xóm Chùa, gần mả song ly bị xét đánh, cứ mổi lần xây mả lại thì sét lại đánh tan tành, thành ra sau này không xây lại nữa.
Trong bóng đêm, giữa cánh đồng khuya vắng, với ánh đèn nhỏ leo lét, hai bóng nhỏ dắt díu nhau trên bờ ruộng trơn trợt. Qua mấy cây trâm bầu tím thẩm, ngang chỗ bà Xẩm thắt cổ, tôi sợ níu áo anh, còn anh thì tỉnh queo bước vui theo tiếng hát qua bản nhạc Kiếp Nghèo của Lam Phương mà anh sửa lời.
Đường về đêm nay thiếu tui... Một mình em đâu có vui... Em buồn ăn cá nướng trui... Ông trời sao cứ khiến xui... Em dìa em hỗng trở lui... Nên thằng tui nước mắt bùi ngùi... Bà con có thấu...
Chiếc gùi trên lưng tôi phảng phất mùi tanh của cá, hoà lẫn mùi hương lúa nàng thơm dịu dàng đầu mùa. Vầng trăng hạ huyền mờ mờ... con đường về nhà còn xa quá xa... Tôi nghĩ nếu cậu còn sống, nhìn 2 anh em tôi dầm sương, dầm mưa giữa đêm khuya thế này, chắc là cậu đau lòng đến đứt ruột!
Khi cậu qua đời không bao lâu, má đi Long Điền đến tiệm Hiệp Châu mua dàn hát máy hiệu Phathé, quay giây thiều, xài kim. Mỗi lần hát là lối xóm đến ngồi ngoài hàng hiên giảo lỗ tai nghe. Nhiệm vụ của tôi là xuống tiệm Hiệp Châu chợ Long Điền mua dĩa hát. Đào hát lúc đó phải kể là Thanh Hương, nổi tiếng qua bài vọng cổ "Cô bán đèn hoa giấy". Cô là ái nữ của nghệ sĩ Năm Châu với cô Tư Sạn. Rồi tới đào Bạch Huệ, Út Bạch Lan, Việt Hùng, Minh Chí, Thành Công, Út Trà Ôn, Thành Được... tiếng đàn mùi riệu phải kể là người nghệ sĩ mù Văn Vĩ. Nhiều cô mê kép, nhiều cậu mê đào bỏ nhà theo gánh hát.
Tánh tôi từ nhỏ không biết đam mê một thứ gì cả, cải lương thì không thích lắm, vì tiếng đàn quá buồn. Dĩa nhạc đầu tiên là Ngựa phi đường xa do ban hợp ca Thăng Long trình bày, và bài thơ ngây.
Dĩa hát anh Ba Tam ghét nhất là chuyện người ăn trộm tên Ba Tam.
Tỉnh lỵ Bà Rịa chỉ có một rạp hát duy nhất, đôi khi xen kẻ cho cải lương mướn. Rạp toạ lạc trên đường Thành Thái, ngay ngã ba ra Vũng Tàu, đối diện hãng nước đá Nam Long của ông Ba Thạch. Rạp thường chiếu phim mầu Ấn Độ, phim Tarzan đen trắng. Một lần anh Tám Búp dụ khị má đi coi phim "Chuyến Đi Thứ Bảy Của Hoàng Tử Sinh Bá", má mê tơi nên từ đó hết chê ciné.
Từ lúc người Bắc di cư vào, cổng với đồn Tây bị dẹp bỏ. dân được tự do đi lại ban đêm. Mỗi chiều chiếc xe Lambretta hát nhạc và quảng cáo phim, từng tờ chương trình bay phất phới xuống lề đường. Dù bị cấm đi xem hát, nhưng qua mưu kế của anh Tám Búp, tôi và Mười Thanh theo anh mỗi đêm vẫn chuồn đi.
Trước nhà ngó xéo qua bên phải có cây dầu cổ thụ, trên cây anh Tám cất cái nhà chòi, sàn lót bằng ván, chúng tôi hay lên đó ngủ trưa, lúc xuống thì đu dây như người rừng Tarzan. Đống rơm cạnh gốc dầu, anh Tám khoét tới chính giữa rồi lót bao bố cho khỏi sót. Gần Tết anh hay xin má cho 3 anh em ra ngủ ngoài đống rơm, vì rơm toả ra rất ấm. Má luôn tin anh,chứ nào biết má vừa đóng chốt cửa là ba anh em thay quần áo dọt lẹ. Vừa qua khỏi nhà bà Bảy Thọ bán tôm, chú Sáu Dẹo, anh Hỉ cà lâm là chúng tôi chạy nước rút cho kịp tới rạp, thường bị trễ nên mất hết khúc phim đầu.
Đến rạp nhiều khi không có tiền mua vé, chúng tôi tìm anh rể Cảnh Sát, anh dẫn vào "coi cọp" hạng đặc biệt, đứng lóng nhóng như " cá kèo ". Đôi khi ghiền quá , anh Tám lãnh bán quạt, bán hột dưa cho gánh hát cải lương Kim Chưởng, Hoa Sen... nhiều lần lén đi nhưng chưa lần bị lộ.
Má với dì Năm diện mạo hơi giống nhau, nhưng tiếng nói khó phân biệt được, đến chúng tôi vẫn bị lầm. Má thì ghiền cải lương nên bị dì Năm phê bình. Đến khi dì mê cải lương rồi còn lậm hơn má nữa, gánh hát về không đêm nào vắng mặt. Lúc tình hình mất an ninh, xã kêu gọi dân làng đừng mặc áo đen, dì không có áo màu nên phải mắc áo túi trắng bên ngoài. Má hay nói mỉa dì " ghét của nào trời trao của nấy ".
Chuyện bùa ngải
Khi cậu qua đời không bao lâu, má đi Long Điền đến tiệm Hiệp Châu mua dàn hát máy hiệu Phathé, quay giây thiều, xài kim. Mỗi lần hát là lối xóm đến ngồi ngoài hàng hiên giảo lỗ tai nghe. Nhiệm vụ của tôi là xuống tiệm Hiệp Châu chợ Long Điền mua dĩa hát. Đào hát lúc đó phải kể là Thanh Hương, nổi tiếng qua bài vọng cổ "Cô bán đèn hoa giấy". Cô là ái nữ của nghệ sĩ Năm Châu với cô Tư Sạn. Rồi tới đào Bạch Huệ, Út Bạch Lan, Việt Hùng, Minh Chí, Thành Công, Út Trà Ôn, Thành Được... tiếng đàn mùi riệu phải kể là người nghệ sĩ mù Văn Vĩ. Nhiều cô mê kép, nhiều cậu mê đào bỏ nhà theo gánh hát.
Tánh tôi từ nhỏ không biết đam mê một thứ gì cả, cải lương thì không thích lắm, vì tiếng đàn quá buồn. Dĩa nhạc đầu tiên là Ngựa phi đường xa do ban hợp ca Thăng Long trình bày, và bài thơ ngây.
Dĩa hát anh Ba Tam ghét nhất là chuyện người ăn trộm tên Ba Tam.
Tỉnh lỵ Bà Rịa chỉ có một rạp hát duy nhất, đôi khi xen kẻ cho cải lương mướn. Rạp toạ lạc trên đường Thành Thái, ngay ngã ba ra Vũng Tàu, đối diện hãng nước đá Nam Long của ông Ba Thạch. Rạp thường chiếu phim mầu Ấn Độ, phim Tarzan đen trắng. Một lần anh Tám Búp dụ khị má đi coi phim "Chuyến Đi Thứ Bảy Của Hoàng Tử Sinh Bá", má mê tơi nên từ đó hết chê ciné.
Từ lúc người Bắc di cư vào, cổng với đồn Tây bị dẹp bỏ. dân được tự do đi lại ban đêm. Mỗi chiều chiếc xe Lambretta hát nhạc và quảng cáo phim, từng tờ chương trình bay phất phới xuống lề đường. Dù bị cấm đi xem hát, nhưng qua mưu kế của anh Tám Búp, tôi và Mười Thanh theo anh mỗi đêm vẫn chuồn đi.
cây dầu cổ thụ
Trước nhà ngó xéo qua bên phải có cây dầu cổ thụ, trên cây anh Tám cất cái nhà chòi, sàn lót bằng ván, chúng tôi hay lên đó ngủ trưa, lúc xuống thì đu dây như người rừng Tarzan. Đống rơm cạnh gốc dầu, anh Tám khoét tới chính giữa rồi lót bao bố cho khỏi sót. Gần Tết anh hay xin má cho 3 anh em ra ngủ ngoài đống rơm, vì rơm toả ra rất ấm. Má luôn tin anh,chứ nào biết má vừa đóng chốt cửa là ba anh em thay quần áo dọt lẹ. Vừa qua khỏi nhà bà Bảy Thọ bán tôm, chú Sáu Dẹo, anh Hỉ cà lâm là chúng tôi chạy nước rút cho kịp tới rạp, thường bị trễ nên mất hết khúc phim đầu.
Đến rạp nhiều khi không có tiền mua vé, chúng tôi tìm anh rể Cảnh Sát, anh dẫn vào "coi cọp" hạng đặc biệt, đứng lóng nhóng như " cá kèo ". Đôi khi ghiền quá , anh Tám lãnh bán quạt, bán hột dưa cho gánh hát cải lương Kim Chưởng, Hoa Sen... nhiều lần lén đi nhưng chưa lần bị lộ.
Má với dì Năm diện mạo hơi giống nhau, nhưng tiếng nói khó phân biệt được, đến chúng tôi vẫn bị lầm. Má thì ghiền cải lương nên bị dì Năm phê bình. Đến khi dì mê cải lương rồi còn lậm hơn má nữa, gánh hát về không đêm nào vắng mặt. Lúc tình hình mất an ninh, xã kêu gọi dân làng đừng mặc áo đen, dì không có áo màu nên phải mắc áo túi trắng bên ngoài. Má hay nói mỉa dì " ghét của nào trời trao của nấy ".
Chuyện bùa ngải
Con đò bỗng đứt dây neo
Bởi cơn sóng dữ nên chèo gẫy đôi
Chẳng thương nhau nữa thì thôi
Gây chi oan trái cho người khổ thân
Chú Sáu Danh, bác Bảy Hiển dọn về xóm Chùa, người dọn đến cất trên nền nhà bác Bảy là cậu Tám Trùm phát thơ, là em vợ của bác Bảy. Ông bà Bảy Ky thì dọn về Quán Chim, miếng đất phía trước má để trồng tỉa không cho người ở đậu nữa. Anh Tư Dận từ khi đi tù về không dám ở trên miễu Bổn Điền vì chung quanh là rừng chồi. Má cho anh cất nhà ngay vườn chuối có cây xoài lão thanh ca. Dì Bảy má anh Tư Lang cất nhà gần bờ mương, cạnh gốc dầu cổ thụ phía trước.
Từ ngày cậu qua đời, căn nhà thờ càng âm u hiu quạnh, đã từ lâu không ai tụng kinh. Má cho người thỉnh bức ảnh ông Quan Thánh Đế Quân, còn cuốn sách Đường Nào Đi Đến Chơn Tiên chẳng biết về đâu?
Như một điềm bất tường báo trước ngày chị Thơm bỏ nhà đi. Bỗng nhiên có con nai chạy lạc vào đất, mọi người ùa chau ví bắt nó làm thịt, rồi đến con gà máy bỗng nhiên gáy lên , tới đám chuối già lùn ngay sàn nước bỗng trổ buồng giữa thân cây.
Chẳng biết chị Thơm có bị ép duyên không? Hay có lẽ vì quá nặng nhọc bởi không còn bà quản gia. Nào là đi chợ, nấu ăn, buôn bán, giặt giủ... đều dồn hết cho chị. Nên một hôm đẹp trời , chị cuốn gói trốn đi trong lúc đang cấn thai.
Không còn bà quản gia, không còn chị Thơm, đi học về tôi phải phụ má công việc nhà như: coi em, xây bột, gở bánh... nội nhìn đống quần áo dơ cũng đã nóng lạnh, giặt bằng xà bông đá chứ làm gì có xà bông bột . Áo trắng khi đã ngã màu cháo lòng thì chỉ có nước ngâm dương. Vào thời đó nhà sang lắm mới gội đầu bằng xà bông cô Ba, do hãng Trương Văn Bền sản xuất tại Chợ Lớn. Thường thì gội bằng lá chùm kết, hay lá bưởi, lá xả... Ì ạch với cái gàu xách nước muốn to hơn mình, trông tôi như con thằn lằn ôm cột đình. Khi giặc xong thì phồng cả hai bàn tay vì xách nước. Lúc ấy tôi mới nghĩ mà thương chị Thơm, ngần ấy công việc làm sao mà chị gánh nổi. Tôi không còn được theo anh Tám bắt dế, rong chơi nữa.
Cũng vì hai chữ nợ duyên
Đi tìm nên vướng ngãi điên ngặt nghèo
Khi nghe tin chị Thơm sanh, anh ba mới đi tìm để nhìn con. Má cấm cản thế nào anh cũng trốn đi. Lần thứ ba anh về thì bỗng lên cơn điên. Nhà đã có chị Hai Cấm bị điên rồi, giờ thêm anh Ba điên nữa. Ai cũng bảo tại dòng họ có "dòng máu điên di truyền?" . Người điên thường dơ bẩn, trái lại anh ba diện rất kẻng, áo sơ mi trắng bỏ thùng , quần tây ủi thẳng, giầy thì đánh xi ra bóng loáng, mới nhìn qua không ai biết anh điên. Nhiều khi anh bỏ đi tuốt xuống Long Hải, má phải thuê xe đi tìm. Anh tự xưng là " thần tiên trên thiên cung giáng hạ" . Dọn cơm lên, chén nào anh cũng ăn mỗi chén một ít. Dao, búa, riều, rựa... đều dấu hết, bởi một lần anh lên cơn chém má, dấu dao còn in thật sâu trên cây cột nhà sau.
Chúng tôi không học hành gì được, đêm ngày phải trông chừng anh. Đêm đến anh chỉ định anh Tám với tôi, hay Mười Thanh, Út phải ngủ dưới đất để hầu chổ ngủ cho "thần" . Má rước đủ thứ thầp pháp, đồng bóng... ai chỉ đâu má cũng tìm tới. Đêm nào không thầy phù thì cũng thầy pháp, nhà rộn rịp còn hơn gánh hát. Lối xóm, già trẻ đến xem lên đồng thật đông như đi xem hát.
Căn nhà thờ đốt 2 cây đèn măng sông sáng rực. Trên mâm lễ vật gồm: hoa, quả, 1 con gà luột, bộ tam sên, tiền lễ đặt trên cái dĩa. Người lên đồng trùm khăn đỏ, pháp sư tay cầm khắn ấn cũng bằng vải nhiễu đỏ, chạy quanh bộ ván, chân nhịp nhàng theo tiếng trống cơm, thỉnh thoảng quất cái khăn ấn nghe rẹt rẹt.
Một đêm nọ pháp sư vừa mới nói tới câu: Ớ này hỡi âm binh ơi.... cấp cấp nghe mật lệnh...Hô.... ,chưa tới chữ giáng thì anh Ba nhào tới giựt cái khăn ấn, làm pháp sư té ngữa. Pháp sư lồm cồm bò dậy, mặt tái mét không còn chút máu, miệng vừa la hô giáng... hô giáng... chân thì chạy, người ngồi đồng cũng vất khăn trùm đầu, người đánh trống thì vất trống. Ai cũng chỉ lo thân mình, thầy cũng đâu còn hồn vía mà lo cho đệ tử, mạnh ai nấy tự thoát thân, chạy có cờ không dám ngó lui, chạy thụt mạng theo pháp sư bỏ cả đồ nghề , mâm lễ vật và tiền lễ, pháp sư kỳ này lỗ to mất hết đồ nghề.
Cứ vài hôm má lại tìm thầy khác, lại lên đồng tiếp tục,đến nổi không còn thầy để mời, nên đem anh về Long Điền gửi vào chùa, thì anh hết điên, nhưng khi ra khỏi chùa thì bệnh điên tái phát. Hết phương chữa, mà nghĩ là dòng họ có bệnh điên di truyền thật, mới nhờ người con rể đem anh lên nhà thương Chợ Quán.
Căn nhà thờ đốt 2 cây đèn măng sông sáng rực. Trên mâm lễ vật gồm: hoa, quả, 1 con gà luột, bộ tam sên, tiền lễ đặt trên cái dĩa. Người lên đồng trùm khăn đỏ, pháp sư tay cầm khắn ấn cũng bằng vải nhiễu đỏ, chạy quanh bộ ván, chân nhịp nhàng theo tiếng trống cơm, thỉnh thoảng quất cái khăn ấn nghe rẹt rẹt.
Một đêm nọ pháp sư vừa mới nói tới câu: Ớ này hỡi âm binh ơi.... cấp cấp nghe mật lệnh...Hô.... ,chưa tới chữ giáng thì anh Ba nhào tới giựt cái khăn ấn, làm pháp sư té ngữa. Pháp sư lồm cồm bò dậy, mặt tái mét không còn chút máu, miệng vừa la hô giáng... hô giáng... chân thì chạy, người ngồi đồng cũng vất khăn trùm đầu, người đánh trống thì vất trống. Ai cũng chỉ lo thân mình, thầy cũng đâu còn hồn vía mà lo cho đệ tử, mạnh ai nấy tự thoát thân, chạy có cờ không dám ngó lui, chạy thụt mạng theo pháp sư bỏ cả đồ nghề , mâm lễ vật và tiền lễ, pháp sư kỳ này lỗ to mất hết đồ nghề.
Cứ vài hôm má lại tìm thầy khác, lại lên đồng tiếp tục,đến nổi không còn thầy để mời, nên đem anh về Long Điền gửi vào chùa, thì anh hết điên, nhưng khi ra khỏi chùa thì bệnh điên tái phát. Hết phương chữa, mà nghĩ là dòng họ có bệnh điên di truyền thật, mới nhờ người con rể đem anh lên nhà thương Chợ Quán.
Kẻ điên ca hát nghêu ngao
Thế nhân bạc ác, đời đau trăm miền
Lần thứ nhì đem anh từ nhà thương Chợ Quán về, thì trên người anh nổi ghẻ ngứa vì nhà thương thiếu vệ sinh. Anh có vẽ tỉnh táo hơn lần trước và nhớ lại lúc đến thăm chị Thơm. Chị mời anh ăn cơm, ăn vừa hết chén thì anh không nhớ gì cả. Má nghe thế mới đi tìm thầy lần nữa , một mặc lo trị bệnh ghẻ ngứa cho anh. Lần này dỉ Bảy má anh Tư Lang giới thiệu ông "cốt Sơn "tại ÔngTrịnh.
Chuyện bùa ngải khoa học cũng không giải thích được như trường hợp của anh tôi. Giống như một đoạn trong truyện " Phong Thần " lúc Khương Tử Nha làm phép thế mạng cho chú tiều phu Võ Kiết. Ông cốt Sơn bắt đào một cái huyệt, ra lệnh cho anh nằm xuống đó. Anh riu ríu nghe lời. Đèn cầy thắp chung quanh huyệt , rồi rải hoa. Ông cốt Sơn đi chung quanh đọc bùa làm phép cúng " "thế mạng" . Chỉ cúng giải bùa một lần căn bệnh điên dứt hẳn. Ông cốt Sơn bảo nếu để cở 1 tháng nữa thì hết phương cứu, ông cho biết:
-Bùa điên này do vợ cậu chủ này bỏ! Nếu bà muốn, tôi sẽ cho bùa này đi ngược lại, thì cái người bỏ bùa sẽ bị điên như cậu chủ này vậy! Má lắc đầu:
-Họ gieo gió thì gặt bão! Tôi chỉ muốn cứu con tôi thôi!
Má năn nỉ cách mấy ông cốt Sơn cũng không nhận tiền chữa bệnh. Má chỉ biết cảm ơn thôi. Người thứ nhì được ông Cốt Sơn cứu là bà y tá ở chợ Long Điền, vốn là chổ thân tình, bà đã cứu má lúc má bị bệnh dịch hạch. Hôm đó bà lên chào má, bà phải lên bệnh viện Đồn Đất để mổ ung thư nơi cổ. Bác sĩ cho biết không chắc qua khỏi, bà nghi là bị ếm nên hỏi nhà ông Cốt Sơn.
Đến tuần sau, bà ghé lại thì cái cổ sưng hôm trước giờ xẹp mất, khỏi phải đi bệnh viện nữa. Bà cho biết bị đồng nghiệp tranh nghề, ếm cây đinh nơi cổ hình nhơn có ghi tên tuổi của bà. Cũng như má ông cốt Sơn chỉ cứu người chứ không nhận tiền.
Nếu sự thật chị bỏ bùa cho anh tôi điên, thì chị đã gieo cái nhân xấu, chỉ cần đủ ngày, đủ tháng, cái hạt giống ấy sẽ ra quả , cái quả ấy sẽ dành cho chị. Chẳng biết lương tâm chị có cắn rức không? Sau này nghe tin chị xuất gia, có lẽ sám hối cho việc làm của mình chăng?
Khi cậu qua đời thì tiền bạc cũng đã cạn vì lo thuốc men cho cậu. Đến khi anh Ba bị điên gần hai năm, tiền bạn từ từ cạn sạch, bán lần đến nữ trang, rồi bán bớt đàn bò, bao nhiêu bò còn lại má gửi về Lò Vôi (Long Hải) cho dì Bảy nuôi rẻ. Nợ nần chồng chất tứ tung, cũng may người cho mượn tiền là thiếm Tư Trò, cô Tư Ngọc Nữ chẳng ai lấy tiền lời cả.
Tánh má tự ái , không muốn hưởng của phụ ấm bên chồng, không muốn bán nhà đất về lại Long Điền. mà lại không muốn cho các con làm thuê ở mướn. Má muốn giữ lại nhà đất do chính công lao khó nhọc của má gầy dựng nên. Nhìn má ngày ngày khòm lưng tráng bánh , hơi lửa nóng làm từng giọt mồ hôi chảy dài xót cả mắt, mặn cả môi.
Chuyện bùa ngải khoa học cũng không giải thích được như trường hợp của anh tôi. Giống như một đoạn trong truyện " Phong Thần " lúc Khương Tử Nha làm phép thế mạng cho chú tiều phu Võ Kiết. Ông cốt Sơn bắt đào một cái huyệt, ra lệnh cho anh nằm xuống đó. Anh riu ríu nghe lời. Đèn cầy thắp chung quanh huyệt , rồi rải hoa. Ông cốt Sơn đi chung quanh đọc bùa làm phép cúng " "thế mạng" . Chỉ cúng giải bùa một lần căn bệnh điên dứt hẳn. Ông cốt Sơn bảo nếu để cở 1 tháng nữa thì hết phương cứu, ông cho biết:
-Bùa điên này do vợ cậu chủ này bỏ! Nếu bà muốn, tôi sẽ cho bùa này đi ngược lại, thì cái người bỏ bùa sẽ bị điên như cậu chủ này vậy! Má lắc đầu:
-Họ gieo gió thì gặt bão! Tôi chỉ muốn cứu con tôi thôi!
Má năn nỉ cách mấy ông cốt Sơn cũng không nhận tiền chữa bệnh. Má chỉ biết cảm ơn thôi. Người thứ nhì được ông Cốt Sơn cứu là bà y tá ở chợ Long Điền, vốn là chổ thân tình, bà đã cứu má lúc má bị bệnh dịch hạch. Hôm đó bà lên chào má, bà phải lên bệnh viện Đồn Đất để mổ ung thư nơi cổ. Bác sĩ cho biết không chắc qua khỏi, bà nghi là bị ếm nên hỏi nhà ông Cốt Sơn.
Đến tuần sau, bà ghé lại thì cái cổ sưng hôm trước giờ xẹp mất, khỏi phải đi bệnh viện nữa. Bà cho biết bị đồng nghiệp tranh nghề, ếm cây đinh nơi cổ hình nhơn có ghi tên tuổi của bà. Cũng như má ông cốt Sơn chỉ cứu người chứ không nhận tiền.
Nếu sự thật chị bỏ bùa cho anh tôi điên, thì chị đã gieo cái nhân xấu, chỉ cần đủ ngày, đủ tháng, cái hạt giống ấy sẽ ra quả , cái quả ấy sẽ dành cho chị. Chẳng biết lương tâm chị có cắn rức không? Sau này nghe tin chị xuất gia, có lẽ sám hối cho việc làm của mình chăng?
Khi cậu qua đời thì tiền bạc cũng đã cạn vì lo thuốc men cho cậu. Đến khi anh Ba bị điên gần hai năm, tiền bạn từ từ cạn sạch, bán lần đến nữ trang, rồi bán bớt đàn bò, bao nhiêu bò còn lại má gửi về Lò Vôi (Long Hải) cho dì Bảy nuôi rẻ. Nợ nần chồng chất tứ tung, cũng may người cho mượn tiền là thiếm Tư Trò, cô Tư Ngọc Nữ chẳng ai lấy tiền lời cả.
Tánh má tự ái , không muốn hưởng của phụ ấm bên chồng, không muốn bán nhà đất về lại Long Điền. mà lại không muốn cho các con làm thuê ở mướn. Má muốn giữ lại nhà đất do chính công lao khó nhọc của má gầy dựng nên. Nhìn má ngày ngày khòm lưng tráng bánh , hơi lửa nóng làm từng giọt mồ hôi chảy dài xót cả mắt, mặn cả môi.
Thân cò lặn lội đồng sâu
Ngày ngày lam lũ mặc trời gió mưa
Đến mùa mưa, má như thân cò lặn lội, dầm mưa, dãi nắng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Nhìn má lam lũ, chắc mót từng đồng, để trả món nợ to lớn kia. Dù má không chấp nhận , nhưng tôi với anh Tám Búp quyết định bỏ học. Chúng tôi lăn lốc ra đời khi tuổi đời non nớt. Anh Tám theo anh Ba ra ruộng, tối lại đi cắm câu, bắt cua, bắt ếch. Dù sợ nước, tôi phải theo anh Sáu Hoa. Anh đèo tôi trên chiếc xe đạp tới Phước Hoà, Ông Trịnh, Phú Mỹ để chài tôm. Khi về tôi ngủ gục làm đổ tôm khi qua cầu Rạch Ván. Có khi tôi làm bạn chài cho anh Năm Keo, anh Bảy Thạnh, mang gùi, xách đèn lượm tôm, được mấy anh chia cho tôm, cá thì ngày đó khỏi tốn tiền đi chợ.
Mùa nắng thì các anh đánh xe bò lên rừng đốn gỗ tuốt miệt Châu Pha, có khi đi mấy ngày mới về. Lần nào về các anh đều mang trái gùi, trái viết, xoài rừng, dâu rừng... lên suối thì bắt cá đồng, bẻ măng, hái trái đát. Bên xóm Chùa thì có chú Hai Thông, thường hay lên núi ở mấy tháng mới về. Chú đan rỗ, đan gùi mang về bán.
Sau này anh Sáu Hoa biết cày rồi nên không mướn thợ cày nữa. Phần ruộng mười mẫu của bác Chín Lợi bán lại cho tiệm thuốc tây Bình Dân. Khi có chính sách " người cày có ruộng ", má được cấp phần ruộng đó, không biết chính phủ phải bồi thường cho tiệm thuốc Bình Dân bao nhiêu?
Ngoài công việc đồng áng, chúng tôi tập cuốc đất trồng khoai, bắp, mía, dưa leo... Về mùa nắng thì mấy anh về Long Điền làm ruộng muối. Tôi chỉ theo ra ruộng muối có một lần cho biết, nhưng chẳng mấy thích vì khô khan vì nắng gió rát bỏng cả mặt, lại phải chèo ghe qua sông.
Tôi chỉ thích theo anh Tám xuống rừng đước để đào con phi, bắt ốc, bắt cua trong hang, loại cua đặc biệt của Bà Rịa, rồi qua rừng chà là hốt trứng cò, nhổ nấm đước.
Dân xóm Lăng chuyên nghề chài lưới, nên sống theo con nước, họ thờ cá ông, nên xây lăng để thờ. Mỗi năm có tục lệ cúng Ông, họ rất sùng bái, người nào vớt được cá ông, họ không nói có ông chết mà kiên cử nói là "Ông luỵ" ,và người đó phải làm đám và để tang trong 3 năm.
Xóm Đồng , xóm Chùa thì làm cả 3 nghề : mùa mưa thì làm ruộng, mùa nắng thì lên rừng hái củi, đốn gỗ. Tới con nước thì đi chài, xóm Đạo núi Dinh thì làm ruộng, trồng rau, chài lưới và hầm than. Tôi thích nhất là theo mợ Tám Trùm với Nữ lên rừng hái lá sâm, bẻ măng là a. Loại măng này chỉ có Bà Rịa mới có, khi luột ủ lá thì măng đổi sang mầu đỏ. Có khi tôi với Thanh theo anh Tám Búp lên rừng nhổ nấm mối, bẻ măng và hái trái cây rừng, lội suối tắm và hái lan rừng. Một lần đi nhằm vào rừng tre có ụ heo rừng làm ổ, nó bất ngờ xông ra rượt 3 anh em . Cũng may có con chó nó thấy 3 anh em chúng tôi gặp nguy hiểm, nên nó liều mạng xông ra và dụ cho con heo rượt theo nó, nhờ nó mà chúng tôi thoát nạn.
Dù chạy thụt mạng mà Mười Thanh tay còn cầm cái cưa không buông, anh Tám đùa là bộ muốn cưa chân heo hay sao? Một lát sau, con chó mới tìm được 3 anh em chúng tôi, nó mừng rở liếm tay tôi, tôi vuốt đầu nó và xem nó có bị thương đâu không, cũng may nó không bị hề hấn gì. Ba anh em cảm động vì nó liều mình cứu chủ, nếu nó không kịp thời dụ con heo rừng đi thì không biết 3 anh em sẽ ra sao, vì con heo rừng rất hung dữ mà cái nanh rất dài.
Anh Tám Búp thích cảnh rừng núi u tịch, giấc mơ của anh là được sống ẩn dật thanh nhàn như gã người rừng Tazzan, như những người Thượng mà thỉnh thoảng chúng tôi gặp trong rừng. Anh Tám như thân cây cổ thụ cho tôi che nắng, đụt mưa, che chở cho tôi mỗi khi bị má rầy. Đôi khi tôi cứng đầu, ương ngạnh, anh chẳng bao giờ giận và rầy la. Mỗi lần được theo anh lên núi, tôi tạm quên đi căn nhà của tuổi thơ u tối và nhọc nhằn.
Giữa rừng núi mênh mông bạt ngàn, anh cất cao giọng hát bài Chiến Sĩ Vô Danh. Tiếng hát làm lay động lá rừng, làm sao xuyến bóng chiều sơn cước.
Mờ trong bóng chiều... một đoàn quân thấp thoáng.... Núi cây rừng... lắng tiếng nghe hình dáng... của người anh hùng... Lạnh lùng theo trống dồn, trên khu đồi hoang... in trong chiều buông.....
Nạn ép duyên
Đời buồn từ thuở ấu thơ
Ô môi đơn độc bên bờ mươngcon
Chiều rơi vương nắng lối mòn
Hoa rơi hiu quạnh khi còn ươm mơ
Chỉ trong vài năm, người di cư miền Bắc đã hoà đồng với đời sống miền Nam, được sự ưu đãi của chính quyền và của vùng đất mới mầu mở. Nhờ cần cù chịu khó nên nơi lập nghiệp mỗi ngày thêm trù phú. Một số định cư ở Phước Tỉnh, bến Đình làm nghề đi biển. Khu rừng chồi dọc núi Dinh, Bà Rịa mọc lên xóm Đạo núi Dinh, xóm đạo Láng Cát, Chu Hải... Ngoài nghề nông, họ trồng rau, chài lưới, làm thêm nghề đốn gỗ và hầm than.
Miền Nam được sống trong no ấm thanh bình, lễ Quốc Khánh tưng bừng hội hoa đăng, hội chợ triển lãm. Pháo bông sáng rực trời, đầu này chiếu phim, góc kia hát cải lương... dân chúng vui chơi đông như Tết...
Nhà bây giờ chỉ có tôi là con gái lớn, nên phải tập tành quán xuyến việc nhà. Gánh nước chưa quen nên phải lót khăn cho đỡ đau vai. Cực nhọc nhất là vào mùa mưa, buổi sáng nấu cơm cho người cày. Má giao cho tiền đi chợ, phải nấu sau cho vén khéo, đủ 3 món : canh, mặn, xào... không mua lố với số tiền má ần định, nếu thức ăn thiếu thì kể như bị màn " kiểm thảo".
Tôi không còn được theo anh Tám Búp lêu lõng rong chơi nữa, tôi phải thức từ canh tư, khi thôn xóm còn chìm trong giấc ngủ say, nhìn sang chùa Long Cốc, tiếng chuông công phu nhẹ nhàng buông, bỗng tia lửa thật xẹt vào trên ngọn cây cầy trước chùa, tôi thấy hơi sợ, nhưng thấy mãi rồi cũng quen . Tôi thức giấc với tiếng chuông chùa thanh thoát, tĩnh lặng, mà mỗi sáng tôi như tên tiểu đồng của Thái Thượng Lão Quân. Khi nghe tiếng công phu sang canh tư là tôi phải thức dậy nhóm lửa lò, giăng khuôn. Đôi khi nhằm củi ướt , khói mịt mù cay xè đỏ mắt. Lo cho má ngồi lò xong, thì quét sân trước, sân sau muốn khòm lưng đổ mồ hôi hột. Quay ra đi chợ, nấu ăn. cái nồi cơm to tướng xem chừng nặng hơn tôi.
Ngày ngày bên cái lò lửa hừng hực nóng, má vẫn ngồi khòm lưng chịu đựng từ sáng cho đến tối. Còn tôi như cái máy tự động vẫn đội bánh đem ra phơi nắng, gở bánh, rồi đếm từ ngày này đến ngày khác. Cái cối đá vẫn xoay tròn, xoay mãi... còn hạt gạo như số phận con người, trôi lăn mãi... trong vòng sinh tử luân hồi!
Vào dịp Tết, má làm không ngừng nghĩ, làm tới 30 mà vẫn không đủ bán. Chỉ bỏ mối một ít ngoài chợ, mỗi lần lấy tiền phải về Long Điền, họ hẹn tới, hẹn lui, trầy trật đôi ba lần mới trả. Má chỉ làm một ít bánh dầy pha mè để biếu, còn bánh dẻo phải nấu nước đường, gừng... gạo thường dùng là gạo lúa tiêu.
Đến mùa mãn cầu, hoặc khi các anh đi chài, soi ếch. Má tập tôi đem chợ bán. Tôi hay đem bán sỉ cho dì Ba Vời, bởi thế thường bị má khiển trách là "lười biếng ". Trong tất cả các con, tôi bị liệt vào đứa con "vô dụng " nhất. Cũng bởi không học được những nghề má chọn, chẳng hoà mình với cuộc sống nông thôn. Cái nghề của má tôi không thích, bắt học tôi chỉ học cầm chừng, cái nào không lủng thì méo xẹo, làm hư miết nên cả nhà ăn bánh uớt ứ hơi. Còn hấp xôi thì nếp không bao giờ thành xôi cả. Dù có đốt hết đống củi cháy cả nồi cũng không chín, nội một việc xàng gạo tôi cũng không xàng được, thì bị chê là đúng rồi, đâu có oan chổ nào!
Em ngồi sàng gạo bao lần
Học hoài chẳng đặng bâng khuâng tiếng chày
Hoàng hôn khói bếp mù bay
Buồn thiu gốc rạ gom đầy hạt châu
Dù lớn lên dưới mái nhà này, nhưng tôi cảm thấy xa lạ, cảm tưởng mình sanh nhằm chổ. Dù chẳng vói cao nhưng... tôi linh cảm rằng, "nơi thôn quê hẻo lánh này chẳng phải nơi tôi dung thân, một biến cố sẽ đưa đến làm thay đổi tất cả " . Nhìn lại bản thân mình nửa quê, nửa chợ, học thức thì kém cỏi mà cái gì cũng dở, nghề nông không biết, nghề chài lưới cũng bù, mà không thể làm cái nghề buôn gánh bán bưng được. Nếu muốn tiến thân, muốn tự lập không bị lệ thuộc vào ai, thì mình phải có một cái nghề. Tôi xin má cho tôi học nghề " may ", thì bị mà mắng cho một trận:
-Có nghề làm bánh tráng lại không học! Viện cớ xin học may để hò hẹn trai gái chớ gì? Muốn hư như chị Năm mày hay sao?
Lúc nào má cũng nươm nướp lo sợ tôi giống chị Năm, nên ngăn ngừa trước. Người dạy chúng tôi điều hay lẻ phải, nhưng chỉ có "giáo điều ngăn cấm " . Vì thế của tôi được người phát họa và "đóng khung " sẳn.
Quảng đời thơ ấu của tôi rất hiếm hoi có những ngày vui hồn nhiên, từ ngày gia đình Hoa với Nữ dọn về xóm Chùa thì tôi không ai là bạn nữa. Tôi sống trong vùng " đất cấm ", không được qua nhà hàng xóm, không được bước qua ranh giới của má ấn định. Giữa khu vườn rộng mênh mông , chỉ 1 cây ô môi đứng đơn độc bên bờ mương con, hứng chịu 2 nguồn nước từ trên nguồn đổ về. Chẳng biết ngẩu nhiên hay " Định Mệnh " đã gắn liền số phận của tôi với cây ô môi ấy. Tôi ví mình là hoa ô môi không hương sắc đó. Ngắm những cánh hoa ô môi là tả rụng trôi theo những mảng bèo, nó gây cho tôi một nỗi buồn man mác, một chút ngậm ngùi, một chút lãng mạn vấn vương...
Ghé đây nước chảy chung dòng
Rồi qua trăm ngả để lòng vấn vương
Ô môi không sắc, không hương
Lẻ loi trong một khu vườn mênh mông...
Đẹp nhất là cận Tết hoa nở đầy cành, hoa từng cùm nhỏ kết vào nhau, sắc hoa mầu hồng tím như môi người con gái, thân cây không sum xuê, trái thì dài thậm thượt lủng lẳng. Khi trái sống thì da xanh, khi trái già chuyển qua mầu đen, vòng tròn trái lớn bằng cây mía, bên trong có từng ngăn, mỗi ngăn có hột, róc cái sóng lưng, tách ra từng ngăn, gở từng miếng. Chẳng mấy ngon và không đem huê lợi nên không ai thích trồng.
Nhờ vào ruộng vườn, sự tần tảo và sức chung lưng làm việc của tất cả gia đình, dần dần má cũng trả dứt món nợ to tát kia. Cuộc sống không còn chật vật như khi trước, gia đình khá giả trở lại. Tinh thần má phấn chấn lên và tự hào:
-Tụi bây xúi táo bán nhà dìa lại Long Điền! Phải tao nghe lời thì đâu có miếng đất cắm dùi!
Thật sự người muốn bán nhà để trả nợ và dọn về Long Điền là anh Ba. Anh Sáu Hoa không chịu ký giấy nên anh Ba phải nhượng bộ, còn mấy anh em chúng tôi còn nhỏ đâu biết gì.
Anh Sáu Hoa sanh ngày 21-9-1938 âm lịch (Mậu Dần) vào giờ Hợi. Tướng anh vạm vở, khôi ngô. Chiều cao hơn hẳn anh Ba. Hàm răng đều như hạt bắp, có mái tóc quăn. Vào năm 1959 (Kỷ Hợi) , anh đã hơn 20, anh xin má cưới chị Bé, con riêng của bác Tám Tất, là em của chị Hai Kim mà hồi trước má tính đi hỏi cho anh Ba. Nhà má chị gần chú Sáu Ai, sau này dời về xóm bác Tốt.
Khi coi tuổi, anh Sáu tuổi Mậu Dần, chị Bé tuổi Tân Tỵ, nằm trong tứ hành xung. Thầy tiên đoán : "nếu cưới sau này anh sẽ chết vì kỵ tuổi ". Má sợ nên không chịu đi hỏi, anh làm tròng làm tréo miết nên má phải nhượng bộ với điều kiện " cưới nhưng không rước dâu ". Chị Bé phải đi lén ngõ sau mà vào.
Chị Bé tướng mảnh mai cao ráo, nước da ngăm, khá đẹp người, tóc dài tới gối, cùng họ Đỗ như má. Chị Hai Kim lấy chồng lính theo chồng đi xa, bác Tám Tất trai mất sớm, nhà lại nghèo mà tới 2 dòng con. Bác gái bán cá ngoài chợ, quá vất vã mà vẫn thiếu trước hụt sau. Má tôi cảm thương nên thường hay giúp đỡ sui gia. Sau này ba ruột với má chị chấp nối lại.
Bác Tám gái có nước da trắng, đẹp người, hiền lành phúc hậu. Trái ngược lại chị Bé hay ganh tị, vì thế em chồng chị dâu không hạp nhau. Nhưng phải công nhận một điều là chị rất giỏi dắn, đảm đang như má, ngoài nghề nông, vườn tược, chị kiêm luôn nghề chài lưới, buôn bán, nhất là bánh trái chị thông thuộc. Chị về không lâu thì nối nghề bánh tráng của má. Chị giỏi hơn chị Thơm nhiều, má rất hài lòng về người dâu này. Có chị lãnh phần đi chợ, buôn bán, một việc mà tôi sợ nhất.
Lắm mai nhiều mối đến thăm
Tuy rằng trăng mới mười lăm chưa tròn
Mẹ vừa nhận lễ cầu hôn
Tủi thân em khóc nên buồn bỏ đi...
Vào năm Canh Tý 1960 , Chị Sáu sanh cháu Ánh, má lên chức bà nội, mặc dù là cháu gái, nhưng má rất vui vì có cháu đầu tiên. Cũng do chị nói ra, nói vào , má đã nhận lời gả tôi cho một người Tàu, làm trong tiệm thuốc bắc Bá An Đường của cô Hai. Cô Hai là gái Việt lấy chồng Tàu, chủ tiệm thuốc bắc rất giầu có, đứa con gái lớn tên Lan. Cô theo chồng bỏ Việt phục mặc toàn là áo xẩm. Chẳng biết vô tình hay cố ý, mà cô cho tôi một mớ áo xẩm. Nhìn gấm, lụa thật đẹp nhưng tôi lơ là không ngó tới, chẳng thà tôi mặc quần bô áo vải, bởi không muốn bị biếm nhẻ là " thiếm xẩm vợ chú Chệt ".
Cái nạn cha mẹ hứa làm sui gia khi còn trong bụng ít khi còn xảy ra nữa. Nhưng cái nạn " ép duyên ", hình như không thể thiếu trong cái xả hội còn quá trọng đạo đức lạc hậu này. Người chồng tương lai mà tôi chưa biết tên, biết mặt. Có lẽ anh chàng kia để ý khi tôi đến tiệm mua thuốc? Tôi nghe người lớn bàn tính cho làm đám hỏi trước, như đặt cọc trước, đợi 3 năm sau tôi 18 tuổi mới cưới. Không ai hỏi ý kiến của tôi cả, tôi có cảm tưởng mình là món hàng mà họ đang trả giá.
Đâu phải ai có chồng Tàu cũng giầu có, như cô Chín con bà Mười (bà ngoại Nữ) , cũng có chồng Tàu nhưng lại nghèo phải đi làm công cho cô Hai tiệm thuốc bắc Bá An Đường. Ông chồng thì vô tích sự, dì còn nghèo hơn những người có chồng Việt trong xóm. Tôi so sánh, tôi phát hoạ về cuộc đời cô Chín, tôi không thể sống như thế được.
Tôi gom góp chút tiền để dành bấy lâu, dấu trong tủ thờ của cậu. Tôi chỉ biết nhìn hình cậu mà than thở, phải chi cậu còn sống thì tôi đâu phải bị ép duyên như thế này! Tôi bước đi mà hình như đôi mắt cậu buồn bã nhìn theo bước chân đứa con gái liều lĩnh. Tuổi mới 15, cái tuổi dại dột mà tôi dám đem ra thử thách với đời. Chống đối lại má, thách thức cả cái xã hội phong kiến cổ hủ này.
Cây cầu sông Dinh thân thương, của một thời thơ ấu với nỗi nhọc nhằn. Hôm qua với ngục tù, khăn sô. Hôm nay cô thôn nữ bé bỏng mới 15 đã phải chạy trốn bởi một cuộc " ép duyên ". Tôi như giòng sông Dinh muốn an phận, muốn gạn đục lắng trong, mà nước lũ sông Hàng cứ cuồn cuộn đổ về, làm khuấy đục cả giòng sông.
cầu sông Dinh (Bà Rịa)
Qua giòng sông thân ái
Khăn sô trắng tội tình
Mà nỗi buồn con gái
Đắng ngắt bờ sông Dinh!
Tôi khao khát khung trời tự do, thì hôm nay tôi được toại nguyện, nhưng... sao tôi lại phân vân. Người vẫn ngược xuôi theo nhịp dòng đời đưa đẩy. Còn tôi nhịp dòng đời sẽ " đưa tôi về đâu? ". Tôi cảm thấy lạnh, bơ vơ... lòng buồn hiu hắt như hàng liễu bên chân cầu.
Tôi chợt nhớ đến anh Ba, từ ngày hết bệnh điên, một thời gian sau anh nhập ngủ, anh gác ở dinh Ông Thượng, có lần tôi theo anh ra đó chơi. Hay mình ra đó xem sao? Vừa mờ sáng, tôi đã có mặt tại Vũng Tàu, tìm đến Bạch Dinh thì anh đã đổi lên Hải Đăng.
Bạch Dinh
Bạch Dinh toạ lạc trên núi Tương Kỳ (núi Lớn), được xây vào năm 1898, ở độ cao 27m so với mặt biển. Đây là công trình được xây theo lối kiến trúc Roma, thường thấy ở Châu Âu vào cuối thế kỷ 19. Nơi toạ lạc của Bạch Dinh, từng là pháo đài Phước Thắng, được vua Minh Mạng cho xây dựng để phòng thủ bờ biển.
Sau khi chiếm được quyền cai trị Đông Dương, chính quyền Pháp đã san bằng pháo đài, để xây dựng dinh thự làm nơi nghĩ mát cho các Toàn quyền Đông Dương và Hoàng đế Bảo Đại. Gồm 3 tầng, cao 19m, bên trong dinh thự được trang trí bằng những hiện vật cổ như: Song bình Bách Điểu, bộ tràng kỷ dưới thời vua Khải Định, cặp ngà voi Châu Phi dài 1,7m.
Ngày nay Bạch Dinh được dùng làm bảo tàng, trưng bày các vật cổ như: đồ gốm từ đời Khang Hy (Trung Quốc), được trục từ con tầu buôn bị đắm ở Hòn Cao (Côn Đảo). 19 khẩu súng thần công từ thời nhà Nguyễn và vô số các cổ vật giá trị khác, được khai quật ở Bà Rịa- Vũng Tàu. Do lớp sơn bên ngoài toàn mầu trắng, nên dân địa phương quen gọi dinh thự này là Bạch Dinh.
Hải Đăng toạ lạc trên đỉnh núi Tương Phùng (núi Nhỏ). Được chính quyền Pháp xây dựng vào năm 1862, nằm ở độ cao 149m so với mực nước biển. Đến năm 1913, chính quyền Pháp xây dựng lại Hải Đăng, dời độ cao từ 149m lên đến độ cao 171m.
Kiến trúc ngọn Hải Đăng là một tháp hình trụ cao 18m, đường kính 3m, và được sơn mầu trắng. Bên trong ngọn Hải Đăng có cầu thang dẫn đến gần đỉnh và ban công.
Tôi hỏi đường và lội bộ từ Bạch Dinh đến Hải Đăng. Tôi rụt rè nhờ người gọi máy cho anh Ba, đợi một lát thì anh xuống. Trông thấy tôi với túi quần áo, anh tròn xoe mắt và hỏi tôi đi đâu? Vừa theo anh lên núi, vừa kể chuyện mình bị ép duyên, hỗng biết đi đâu nên tìm anh cầu cứu. Đang đi nửa chừng núi thì bỗng một chú kỳ đà băng qua đường nhìn tôi như giễu cợt. Anh Ba cười rồi tiên đoán " bị kỳ đà cả mũi thế nào ở nhà cũng xuống tìm ".
Tôi lại sợ và đòi theo anh, nhưng đâu biết là lính rày đây mai đó, làm sao mà anh có thể cưu mang tôi được. Anh an ủi dỗ dành hứa sẽ giúp. Nhìn về hướng Bà Rịa làm tôi mũi lòng. Nơi đó tôi có mẹ, nhưng mẹ tôi thương con không đúng chỗ, cây cổ thụ đó không là bóng mát cho tôi đụt nắng, che mưa. Tôi như dây leo, cố bám lên thân cổ thụ, nhưng bị bàn tay tàn nhẫn bứt quăng đi. Lên núi Tương Phùng tìm anh, nhưng anh có cứu tôi được hay không? Ngồi chưa nóng ghế thì máy lại gọi anh nữa, thấy tôi sợ anh trấn an:
-Em đừng sợ! Anh sẽ nói với má dùm cho! Anh phải dằn mặt thiếm Sáu mới được!
Tôi theo anh xuống núi, vừa xuống tới thì đã thấy chị Sáu đứng chờ, chị vừa mới sanh hơn tháng. Má biết là tôi chẳng quen ai, nên đoán là tôi ra Vũng Tàu tìm anh Ba. Vừa gặp chị là anh Ba vô đề liền:
-Ở nhà chỉ có nó là con gái! Mới 15 tuổi mà gả chồng là cớ gì nếu không có người xúi dục! Tui giao nó cho thiếm dẫn dìa! Nói với má đừng ép gả nó nữa! Nếu nó bị má tui oánh thì thiếm biết tay tui!
Anh nói một hơi, chị nín thinh không dám trả lời và thừa hiễu là anh ám chỉ ai. Trong nhà chị chỉ ngán anh Ba thôi. Tôi theo chị về mà lòng lo sợ, thế nào rồi cũng ăn " roi mây " không nhiều thì ít.
Nhìn qua đường vòng núi Nhỏ, vài cổ xe ngựa đưa du khách dạo biển. Tiếng lục lạc rung leng keng, cùng tiếng vó ngựa gõ đồm độp trên đường nhựa. Tiếng rà cán roi vào căm xe thay thế tiếng chuông để người đi đường biết mà tránh. Nhìn cây roi nhịp trên lưng ngựa, tôi tưởng tượng ra cây roi mây của má, chưa bị đòn mà đã thấy đau!!!...
Chẳng biết chị nói gì với má, mà tôi không bị rầy một tiếng. Vì mới hứa chưa nhận lễ hỏi nên hồi lại cũng dễ dàng. Tôi mừng rỡ thoát nạn, trong lòng thầm cám ơn anh, cố gắng sống hoà thuận với chị dâu.
Tánh tôi vốn cứng đầu, ương ngạnh từ nhỏ. Con gái mà có tới 2 cái xoáy trên đầu, mới 15 tuổi mà đã dám liều lĩnh bỏ nhà đi khi bị ép duyên. Dù nhượng bộ, nhưng má đã thấy sự " chống đối " của tôi, nên người muốn gả chồng sớm, người sợ hủ mắm treo đầu giường bể lúc nào không hay.
Cuộc Đảo Chính đầu tiên
của Đệ Nhất Cộng Hoà 1960
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Năm 1960 (Canh Tý), trái bom chính trị của nhóm Caravelle nổ ngày 26-4-1960 do Trần Văn Vân, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Trần Văn Lý đề xướng. Đỗ Mậu khi ấy là Giám Đốc An Ninh Quân đội thay thế Mai Hữu Xuân.
Ngày 11-11-1960, cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm do: Đại Tá Nguyễn Chánh Thi thuộc Tư lệnh Lực lượng Dù, Trung Tá Phạm Văn Liễu, Nguyễn Triệu Hồng, Vương Văn Đông, Nguyễn Huy Lợi bị thất bại.
Tướng Nguyễn Chánh Thi
đảo chánh 1960
Cuộc đảo chính được Trung Tá Vương Văn Đông, một sĩ quan người miền Bắc từng tham gia chiến tranh chống Việt Minh. Ông được huấn luyện ở Kansas -Hoa Kỳ. Kế hoạch đảo chính đã được Đông và các quan chức bất bình với chế độ Diệm, trong đó có Đại Tá Nguyễn Chánh Thi. Đông đã cấu kết được với 1 Trung đoàn xe thiết giáp, 1 đơn vị Hải Quân và 3 Tiểu đoàn Nhảy Dù.
đảo chánh 1960
Ngày 12-11, Đại Tá Huỳnh Văn Cao chỉ huy Bộ Binh và Thiết Giáp thuộc Sư đoàn 7 đóng ở Mỹ Tho cùng Đại Tá Trần Thiện Khiêm và Trung Tá Bùi Dzinh chỉ huy Bộ Binh và Pháo Binh thuộc Sư Đoàn 21 đóng ở Sa Đéc tiến vào Sàigòn. Cuộc giao tranh chớp nhoáng nhưng khốc liệt với khoảng 400 người chết, trong đó có nhiều thường dân vì tò mò.
Đại Tá Huỳnh Văn Cao
đảo chánh 1960
Sau khi cuộc đảo chính bị dập tắt, các sĩ quan và chính khách liên can như : Đại Tá Nguyễn Chánh Thi- Trung Tá Vương Văn Đông- Đại Uý Phan Lạc Tuyên- Trần Văn Hương_ Phan Quang Đán- Nguyễn Tường Tam, bị thanh trừng và đưa ra xét xử. Kẻ vào tù, người lưu vong.
Tổng thống Hoa Kỳ
Jonh F Kennedy
Và cũng là ngày Tổng Thống Hoa Kỳ Jonh F Kennedy thuộc đảng Dân Chủ đắc cử. Tướng Williams mãn nhiệm kỳ, Tướng Mc Carr thay thế . Quân Mỹ tăng lên 12.000 người. Trực thăng và thiết vận xa M.113 được xử dụng lần đầu tại miền Nam.
Nguyễn Chí Thanh được phong chức Uỷ viên Bộ Chính trị để chuẩn bị vào Nam chỉ huy Mặt Trận Giải Phóng, châm ngòi khởi xướng vào ngày 20-12-1960.
đảo chánh 1960
Thanh niên trong xóm có lệnh động viên thi hành nghĩa vụ quân dịch. Anh Sáu Hoa lên đường thụ huấn tại quân trường Quang Trung, và anh Quang xóm trên, cả đến anh Khờ coi bò cho bác Tư Du thầy thuốc cũng phải khăn gói lên đường nhập ngủ. Mấy thanh niên bên đảo Bà Trao khóc mùi mẫn khi bắt buộc phải cắt bỏ " búi tóc " để vào quân trường. Anh Bé, anh của Tuyết, con trai duy nhất của dì Ba Vời, học sinh trường Sĩ Tải. Lâu lắm không thấy anh vào mua bánh nữa, được biết anh lên thành đô ăn học. Tôi mừng dù cho anh tương lai sẽ sáng sủa hơn những người bạn cùng xóm. Nhưng lòng tôi cảm thấy buồn man mác khi các anh trong xóm lần lượt ra đi.
Người dân sống thanh bình, yên ổn không bao lâu thì lại bắt đầu sống cảnh bấp bênh của thời chiến. Trên radio, ra rả hát bài " Anh đi chiến dịch". Sau mấy tháng thụ huấn trong quân trường Quan Trung, anh Sáu Hoa được lệnh thuyên chuyển ra miền Trung. Nên chị lại bồng bế theo anh, thế là tôi được bàn giao lại công việc nhà " mèo lại hoàn mèo ".
Sau chuyến bỏ nhà đi, má càng kiểm soát tôi gắt gao hơn. Anh Tám thấy tội nghiệp nên hay mua báo, mướn truyện về cho tôi. Thời đó có báo Sàigòn Mới của bà Bút Trà, Tiếng Chuông của ông Đinh Văn Khai....Kiếp hiệp bắt đầu từ cuốn Thiếu Lâm Trường Hận, tập thật mỏng ra hằng tuần. Đôi khi lén coi sách mãi mê quên đội bánh vào làm bánh khô quá nên bể nhiều, làm anh Tám bị rầy vì tội mua sách. Những chuyện bí mật không muốn má biết, chúng tôi dùng từ trong kiếp hiệp làm mật mả.
Tình đơn phương
Cây si trồng cạnh vườn mai
Đợi Xuân những tưởng thái lai sum vầy
Thẹn thùng chửa dám cầm tay
Tình chưa dám ngỏ chia hai lối đường!
Bạn của tôi là cây ô môi, là lũ chim sâu, chim sẻ... Tôi cố hết sức mình thực tập, theo các bác bên xóm Chùa, theo mợ Tám Trùm, theo Nữ, khi thì lên núi bẻ măng là a, lúc dầm mình dưới giòng sông thầm lặng trong cái lạnh của ngày Tết gần kề, đào từ con phi, bắt từ con ốc. Thế mà tôi không thể nào hoà mình với cuộc sống dân quê.
Bên luỹ tre xanh hiền lành mộc mạc, như chất chứa lời oán than của kiếp người " sanh nhằm thế kỷ ". Bên hàng cau xơ xác, buồn hiu hắt như xót xa cho thân phận của người phụ nữ bị đời quên lãng. Họ sống nhẫn nhục, chịu đựng trong tận cùng cái khổ của con người, mà giòng sông như hứa hẹn một kiếp nghèo đói cứ mãi bám theo những người dân lam lũ.
Đám con hơn chục có đầu
Nhóc nheo ốm đói nghe rầu cuối năm
Chẳng còn chi nữa để cầm
Chiếu chăn rách nát chỗ nằm dột mưa
Bên đàn con nheo nhóc một chục có đầu như đàn heo, đẻ như gà tì tì một năm 2 đứa. Sáng cơm. chiều cháo còn phải độn khoai, quần áo thì tả tơi như xơ mướp, ốm đói ầy còm, mũi dãi lòng thòng tèm lem dơ dáy. Tưởng tượng rồi mình sẽ như họ thôi khiến tôi rùng mình ngao ngán!
Chồng em sáng xỉn, chiều say
Thần men hành hạ lăn quay giữa nhà
Sợ chồng hơn cả mẹ cha
Say thì đòn gánh chổi chà nó phang
Nhìn các chị trong xóm lần lượt lấy chồng, gặp phải chồng như chú Mười Vĩ, sáng thì xỉn, chiều thì say, bị đòn như cơm bữa. Thiếm Mười giỏi dang mà còn bị hẩm hiu như thế. Chạnh nghĩ đến phận mình chỉ biết " ăn hại ", thì số phận lại càng hẩm hiu hơn.
Dãy ruộng má làm, cuối ruộng là nhánh sống gần xóm Đạo núi Dinh, nhiều năm nước sông dâng cao tràn lên mấy đám ruộng cuối, làm nước lờ lợ không trồng lúa được. Ruộng bỏ cho lác, củ năng mọc đầy. Mùa nước cao , đám còng gió, mấy trự cá thòi lòi bò qua khỏi rừng bần, thêm mấy con le le (vịt trời) hay làm ổ ngay lùm cây đám ruộng cuối.
Sánh tinh mơ vào cuối tuần, từng hồi chuông giáo đường vang lên vội vã, thúc giục giáo dân đi lễ. Xóm đạo mỗi năm mỗi thay đổi, mái nhà tranh dần dần được thay bằng mái tôn hoặc ngói đỏ, nhà cửa trông khang trang hơn. Mùa mưa vừa dứt bầu trời trong xanh, đám mây trắng như sữa loãng trôi bồng bềnh quyện lấy cây thập tự giá, nhịp sống của xóm đạo vẫn yên bình.
Đến mùa gặt , má bận tráng bánh bán Tết nên tôi phải xuống ruộng coi thợ gặt, mấy bác , mấy chị gọi tôi là "cô chủ nhỏ". Thợ không còn gặt nữa mà cắt lúa bằng lưới hái, dùng bồ đập lúa tại chổ . Khi trả công cho thợ thì lường bằng thúng, chủ 7 thì công thợ 1. Thợ thích trả bằng lúa hơn bằng tiền.
Trên cánh đồng vàng rực như tấm thảm, họ khòm lưng cả ngày dưới ánh nắng gắt, từng nắm lúa là từng giọt mồ hôi xót mắt, mặn môi. Lúa đổ vào bao bố tời cho xe bò chở về. Cánh đồng bỗng thiếu vắng cảnh các cô thôn nữ, các chàng trai gánh lúa, mừng nhất là lủ trâu, bò không phải thức đêm để đạp lúa.
Tôi nhìn thấy cái nghèo của dân quê, đi mót từng vé lúa, mà còn bị chủ ruộng đuổi xua. Như giòng sông kia vẫn buồn hiu hắt vào những ngày mưa gió, mà cái nghèo đói cứ mãi bám theo. Giữa cánh đồng không mông quạnh, cuối ruộng của má chỉ có một bóng cây, mỗi lần lên đầu rượng tôi hay tạt qua cây bằng lăng tím bên ruộng bác Tốt để ăn cơm và nghĩ trưa. Cánh đồng ruộng bao la chỉ có vài bóng cây nên thành một quán trọ của lũ chim, thay phiên nhau làm tổ.
Võ Từ Đường gần giáp ranh nhà chú Ba Xiếu, chú Ba Pháp, nơi thờ dòng họ Võ Tánh. Anh Võ Hữu Lợi thân tộc của Võ Từ đường, ba kế là bác Tốt , má anh là bác Vui. Anh là bạn thân của anh Tám Búp, nên thường hay đến nhà tập tạ. Anh Lợi có nước da trắng hồng, đặc biệt là mái tóc quăn tít, chiều cao hơi lùn.
Võ Hữu Lợi
Anh Tám Nguyễn Văn Búp
Anh Tám Nguyễn Văn Búp
Khác với anh Ba, môn thể thao là đá banh, anh Tám Búp thích môn tập tạ. Thời đó có chương trình kiến con hay kiến càng gì đó, nên hai anh chơi môn tập tạ. Người nào thân hình cũng lực lưởng, không hút thuốc, không rượu chè, một mẫu người thanh niên lý tưởng. Sở thích của anh Tám Búp là sưu tầm hình ảnh lực sĩ thế giới và nuôi thú. Anh Tám Búp có gương mặt chữ điền, khôi ngô, cao lớn bằng anh sáu Hoa, anh chỉ có một khuyết điểm là hàm răng không đều.
Anh Tám Nguyễn Văn Búp
Mốt thanh niên lúc đó hay chải tóc bằng bờ ri dăng tin bóng như dầu sáp, tóc uốn dợn phía trước, chải khô phùng lên như mái tóc tài tử Robert Taylor của New York. Anh Tám chụp hình lực sĩ , ảnh truyền thần. Tiệm Minh Cảnh phóng lớn chưng làm mẫu. Tôi cũng bắt chước theo anh, lén đi chụp hình, mượn áo , vòng vàng với đôi khoen mọi, tóc thắt bính 2 đuôi sam.
Thanh Hiền- 1960
Anh Tám Nguyễn Văn Búp
Cây si trồng mãi nhà ai
Năm tàn tháng lụn chờ hoài uổng công
Cây si trồng cạnh rừng thông
Chẳng ngờ ai đó lấy chồng bữa qua
Ruộng bác Tốt nằm song hàng với ruộng của má, nên Lợi thường kiếm cớ sang bên tôi phụ khuân lúa. Nhìn tấm, thân trần lực lưởng với hai cánh tay bắp thịt nổi lên cuồn cuộn, mái tóc quăn loà xoà rủ xuống vầng trán trắng hồng, trông anh như một lực sĩ thứ thiệt, một thanh niên tỉnh thành hơn nhà nông. Giữa cánh đồng vắng vẻ, đôi khi chỉ có 2 đứa. Chưa bao giờ anh dám nắm tay tôi, cái cây si kia chỉ biết nhìn trộm mà cành lá thì quá rụt rè.
Cây si trồng mãi đến già
Vô tình chẳng biết nên hoa hững hờ
Cây si buồn ngẩn buồn ngơ
Chờ hoài cho đến bao giờ si ơi!
Tình anh chân thành như hàng tre xanh, như bờ dậu biếc, ra ruộng có anh đón, về có anh đưa. Dù anh chưa dám ngõ nhưng... cử chỉ săn sóc kín đáo kia đã nói lên tình cảm anh dành cho tôi. Đến đổi bác Bảy Hiển trai còn nói xa, nói gần, có ý tán thành cho 2 đứa. Thế rồi bà nội anh đến ngõ lời cầu hôn. Má làm cao từ chối bảo là tôi " còn nhỏ ". Từ hôm ấy anh thẹn lánh mặt luôn, đến mùa ruộng anh vẫn đi phụ bác Tốt, nhưng không ghé qua bên tôi nữa, và anh cũng không đến nhà tập tạ như mọi lần.
Bên này anh chẳng bước sang
Lối về xa vắng chiều hoang lạnh đầy
Bên kia ngăn lối bên này
Lối xưa hết đợi để ngày hết trông...
Võ Hữu Lợi
Ruộng hai bên nằm dựa song hành. Anh bên kia, tôi bên này, cách trở bởi con sông lạc hậu với cánh rừng bảo thủ . Chiều về, anh vội vàng bước nhanh không đợi chờ tôi nữa. Tiếng chim vịt gọi chiều rời rã, bóng anh lẻ loi trên cánh đồng quạnh vắng buồn tênh...
Tôi chỉ có cảm tình với anh, chưa hẳn là tình yêu, nhưng... nếu má chọn anh làm rể, có lẽ tôi sẽ vâng lời, vì tôi nghĩ anh hiền lành đôn hậu, sẽ là người chồng tốt, người cha có trách nhiệm. Tôi nghĩ nếu "tôi yêu anh" cuộc tình sẽ không thành, vì tôi không có quyền chọn cho mình một người bạn trăm năm. Đời tôi lỡ dỡ cũng bởi má " kén cá chọn canh" . Con đường tình tôi đi không trơn tru như mặt ván gỗ, mà nó quanh co gập ghềnh như con đường đất trong xóm.
Với anh chưa nói chữ yêu
Sáng qua mới gặp đến chiều đã xa
Chạnh thương số kiếp loài hoa
Bằng Lăng tím ngắt xót xa phận mình
Mùa gặt lại đến, ngang qua cây bằng lăng tím, gió lao xao khiến lòng tôi xao xuyến nhớ anh. Lũ chim vẫn làm tổ, đàn chim con lớn lên tung cánh khắp bồn phương trời. Chim có thương dùm phận tôi đang bị giam hảm trong chiếc lồng nhỏ hẹp.
Tôi không ghé lại cây bằng lăng tím tránh nắng, đụt mưa nữa, mầu hoa càng tím ngắt như xót xa u hoài cho số phận hẩm hiu của tôi, Trên đảo " cô đơn " tôi sống biệt lập với thế giới bên ngoài!
Tình đầu dang dở
Đường tình có mấy ngày vui
Mà sao nước mắt ngậm ngùi xót xa
Quẩn quanh kẻ thiệt là ta
Hiếu thì vẹn hiếu tình qua mất rồi!
Ngày 6 tháng 1 năm 1961 (Tân Sửu). Thủ Tướng Nga Nikita Khroushchev ủng hộ chiến tranh. Kiến Hoà bị Việt Cộng tấn công vào ngày 1-4-1961, và thuỷ điện Đa Nhiêm bị phá hoại. Cũng trong năm này Allen Welsh Dulles giám đốc CIA bị mất chức. Tướng Maxwell D.Taylor là cố vấn chính sách đối ngoại và Quốc Phòng Walt Rostow sang Việt Nam vào tháng 10-1961 để thẩm định tình hình. Đại Tướng Maxwell D. Taylor đóng vai trò tối quan trọng trong những ngày tháng đầu tiên của chiến tranh Việt Nam. Ông tham gia soạn thảo kế hoạch bình định Miền Nam Việt Nam, còn gọi là kế hoạch Staley-Taylor.
Đại Tướng Maxwell Davenport Taylor
Năm này cố vấn Mỹ gia tăng đến 3.200 người. Ba Đại Đội trực thăng H.21 của Bộ Binh Mỹ. 16 phi cơ vận tải C.123 được gửi sang Việt Nam. Hai Chi Đoàn Thiết Vận Xa M.113 cũng đến Việt Nam vào tháng 4. Đặt dưới quyền xử dụng của 2 Sư Đoàn 7 và 21 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Ấp chiến lược với hàng rào bằng tre và hào cạn cắm chông bao quanh
Quốc sách " Ấp Chiến Lược" được thi hành, để chống chiến tranh du kích. Người dân sống rải rác phải dời vào trong vòng đai ấp chiến lược, để dễ dàng kiểm soát. Người dân lại một phen nữa sống dằng co, ban ngày qua sự kiểm soát của Quốc Gia. Khi màn đêm xuống thì qua sự kiểm soát của Việt Cộng.
Một năm trôi qua, anh Sáu Hoa với các bạn cùng xóm mãn hạng quân dịch trở về. Anh Quang xóm trên dẫn về cô vợ miền Trung. Anh Ba lấy vợ thứ nhì tên Hoa gốc Phước Hoà. Chồng trước chị Hoa là anh Tư Chệt cùng xóm nhà anh Năm Lãnh. Chị bị anh Tư Chệt ruồng bỏ, má cảm thương tình cảnh long đong của chị, nên mới đem chị về cho anh Ba, chứ không có cưới hỏi gì cả.Từ ngày có chị Hoa, trong nhà thường xảy ra bất hoà giữa chị em bạn dâu, nên chị Hoa sống với anh Ba vài tháng rồi cũng bỏ đi.
Bà Cố Vấn Ngô Đình Nhu và trưởng nữ
Ngô Đình Lệ Thuỷ
Bà Ngô Đình Nhu, nhủ danh Trần Lệ Xuân, sanh ngày 15-4-1924 tại Hà Nội, trong một gia đình danh gia thế phiệt. Thân phụ là Luật Sư Trần Văn Chương, con Tổng đốc Nam Định, sau này là Đại sứ của Việt Nam Cộng Hoà tại Hoa Kỳ. Mẹ là bà Thân Thị Nam Trân là cháu ngoại của vua Đồng Khánh và là em họ của vua Bảo Đại. Năm 19 tuổi bà lập gia đình với ông Ngô Đình Nhu. Khi ông Ngô Đình Diệm lên làm Tổng Thống, thì ông Nhu làm cố vấn chính trị, và vì ông Diệm độc thân nên bà Trần Lệ Xuân luôn là người đứng ra tiếp các phu nhân của các vị quốc khách. Bà học Albert Sarrault, thi đậu tú tài Pháp.
Bà Trần Lệ Xuân cũng là dân biểu Quốc Hội, chủ tịch phong trào Phụ nữ Liên đới. Bà đã đưa ra đạo Luật gia đình cấm người đàn ông lấy hai vợ. Luật bảo vệ luân lý và thuần phong mỹ tục. đồng thời còn nhiều hoạt động xã hội khác. Chiếc áo dài cổ hở do bà đề xướng, vào thời đó gọi là " áo dài bà Nhu ", cũng là một dấu ấn mà bà để lại đến ngày hôm nai. Là một phụ nữ tài giỏi, xông xáo, nhưng bà cũng có những phát biểu gây sốc làm cho không ít người bất bình.
Bà Cố vấn Ngô Đình Nhu không phải là người phụ nữ đầu tiên chen chân vào chính trị mà phụ nữ Việt Nam đã là nữ hoàng, như hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị, Bà Triệu và rất nhiều vị nữ anh thư.Cũng vì không cẩn trọng lời nói, mà bà đã làm mất lòng và cái hậu quả thật quá bi thảm.
Một lời nói bạn thốt ra
Làm đau lòng bướm làm hoa héo gầy
Làm cho dao động hàng cây
Trường giang dậy sóng người gây hận thù
Trải qua bao thế kỷ, bà Nhu là người giải phóng cho người phụ nữ Việt Nam, và luật " cấm đa thê " được ban hành. Và phong trào Thanh Nữ Cộng Hoà được bà Nhu thành lập. Bà là dân biểu trong Quốc hội thời Đệ Nhất Cộng Hoà cũng là Chủ Tịch Hội Phụ Nữ Liên Đới ( với hình tượng Ngọn đèn dầu của những cô trinh nữ trong thánh kinh ) Cùng lúc , bà tổ chức Phụ nữ bán Quân sự (10-1961) tự nguyện, được huấn luyện tự vệ, sử dụng vũ khí và y tế. Trưởng Nữ Lê Thuỷ gia nhập lực lượng này từ khi 16 tuổi. Tuy nhiên địa vị quan trọng hơn là " bà Cố Vấn".
Lực lượng Phụ nữ bán quân sự và Thanh nữ Cộng Hoà ( nền Đệ Nhất Cộng Hoà 1956-1963 ). Do bà Trần Lệ Xuân, phu nhân cố vấn Ngô Đình Nhu sáng lập.
Hai tổ chức này được võ trang, huấn luyện quân sự nhằm mục
đích bảo vệ xóm làng, nhất là các Ấp Chiến Lược ở nông thôn. Phụ nữ trong xóm bắt buộc phải tham gia, trong số đó có tôi bên xóm Đồng, dù tôi mới 16 tuổi, với chị Tư thợ may, con chú Ba Cân bên xóm Chùa...
Ban đầu họ đùn tôi chức đoàn trưởng, trong khi đó tuổi tôi chưa tới 18. Lệnh trên ban xuống, nên má không muốn cho tôi đi cũng không được. Phụ nữ đã không còn trong xó bếp mà bắt đầu chen chân vào guồng máy chính trị.
Thái độ bà Nhu gây chú ý của Hoa Thịnh Đốn. Vụ tiếp theo là chuyến viếng thăm Việt Nam của Phó Tổng Thống Lyndon B.Jonhson ngày 12-5-1961.
Phó Tổng Thống Hoa Kỳ
Lyndon B. Jonhson
Đảo chánh lần thứ hai
Vụ đánh bom dinh Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà 1962, là một vụ tấn công bằng Không Quân vào ngày 27 tháng 2 năm 1962. Do hai phi công là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà thực hiện. Mục đích của cuộc tấn công là nhằm ám sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và gia đình ông. Quả bom nặng 500 lb đầu tiên đã xuyên vào một căn phòng mà trong đó Ông Diệm đang đọc sách, quả bom đã không nổ. Ba người phục vụ và lính gác bị chết, khoảng 30 người bị thương. Một nhà thầu người Mỹ leo lên nóc nhà để xem vụ tấn công đã bị rơi xuống mà chết.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Phạm Phú Quốc bị bắt giữ và bị bỏ tù, trong khi Cử sống lưu vong ở Campuchia. Sau khi Diệm bị ám sát năm 1963, Quốc đã được tha và Cử đã trở về nước và tiếp tục trong Không lực VNCH.
diễn hành của Thanh Nữ Cộng Hoà
Mỗi lần đi họp về, má hạch hỏi, điều tra gắt hơn cả "công an ". Tôi vẫn không quên cái ánh mắt nhìn từ đầu đến chân như muốn lột trần, sắc bén đến độ muốn thủng qua cái áo. Trừ khi đi chợ, đi mua Long Điền đến tiệm Hiệp Châu mua dĩa hát cho má. Tôi không được đi đâu hay được phép có bạn. Mỗi khi ra đường, tôi không dám ngó dọc, liếc ngang, cứ cắm đầu nhìn xuống mà đi, thành ra con gái đứa nào cũng mang cái tật tìm " bạc cắc". Chưa lần tôi dám ngồi trong lồng chợ ăn quà , chẳng bao giờ dám trễ giờ má ấn định mà không có lý do.
Chiều đi ghé lại cầu ao
Ghé qua đảo Cấm hỏi sao em buồn
Nơi đây thiếu vắng yêu thương
Ước mơ khép kín lối đường vào yêu!
Tôi ví khu đất của má là " Đảo Cấm ", mà mình là cô bé Lọ Lem bị giam hảm trên đảo. Nhìn các bạn cùng trang lứa được tự do mà thèm thuồng mơ ước. Nhiều khi cái ý nghĩ mình là " con ghẻ " cứ ám ảnh mãi trong đầu.
Vào thời bà Ngô Đình Nhu, bà là người đầu tiên mặc chiếc áo dài cổ thuyền, mốt áo dài hở cổ được khai sinh từ đó. Luật cấm " "đa thê " của bà Nhu được ban hành, làn gió mới có thay đổi nơi thành phố, còn nơi thôn quê " phép vua thua lệ làng ", vì thế bức tường đạo lý vẫn bất di bất dịch. Trai gái yêu nhau rất hiếm được cha mẹ chấp thuận cho kết hôn. Từ thế hệ này cho đến thế hệ khác chỉ có bấy nhiêu tập tục đó. Cái khuôn khổ nhứt định kia, thêm cái nền tảng cứng như thép nguội nọ, không bị ngọn gió phương Tây quật ngả.
Xứ này chấp nhận đa thê
Mấy ông vốn thích đam mê " ăn chè "
Khi hàng hoá Mỹ xâm nhập ồ ạt vào thị trường, không ít người như má tiêm nhiễm đồ xa xí phẩm, vật chất ảnh hưởng khá nhiều nơi đô thị lớn. Thôn quê cũng đua nhau xài độ ngoại do Mỹ mang đến, bán ngoài " chợ đen ". Nhưng họ vẫn bám víu vào tập tục cũ mèm của Tổ Tiên, lo ngăn chận tư tưởng phương Tây.
Lớp Bình Dân Học Vụ
Phần đông dân quê thất học, nên chương trình chống mù chữ được mở ra, khuyến khích những người lớn tuổi đi học đêm lớp
" Bình Dân Học Vụ". Thầy giáo thì trẻ măng, còn học sinh phần nhiều là " bà già trầu ". Sợ ngồi lâu ghiền trầu ngáp, nên người nào cũng mang trầu với ống nhổ theo. Má đi học nhưng càu nhàu:
-Cái bà cố bà sơ gì đó! Đờn bà hỗng ở nhà lo con cái! Hết bắt con gái đi bắn súng! Lại bắt bà già đi học! Tao già cả đầu có sạn rồi học sao cho vô!
Tôi biết má thích truyện Tàu nên dụ khị, khi nào má đọc được sẽ mướn truyện Tiết Nhơn Quí chinh Đông hay Tây Du Ký cho má đọc. Má tả cho một hơi:
-Hàng chữ gì mà nó dài thòn ngó vô như đám rừng! Chữ gì mà giống như cái nạng chống bánh tráng! Rồi lại ưởn ra như bụng bà chửa! Rồi lại tròn o như cái trứng vịt! Lại có móc như câu liêm! Sao lại có cu có dê trong đó! Tao cầm tay trái quen rồi! Bắt tao cầm tay mặt giống như gà bươi! Tao nói thiệt tụi bây cộng trừ còn viết tới viết lui! Tao tính rợ là trúng phong phóc! Chưa chắc tụi bây ăn tao!
Đêm nào tôi cũng theo má yểm trợ tinh thần, học vài tháng má biết ký tên rồi không chịu học nữa. Lớp học dần dần còn lèo tèo nên dẹp tiệm luôn.
Gia đình anh Tư Lang ở đậu trong đất vài năm, họ sống đùm bọc trong mái nhà tôn nền đất, dù nghèo nhưng thanh đạm, sạch sẻ và tươm tất. Gia đình có tất cả 4 người lớn và 2 đứa bé. Dì Bảy mẹ anh người Rạch Nghệ, dì có làn da trắng hồng, dánh mảnh mai thanh lịch, mà nét đẹp một thời còn lưu lại. Chị Ba không đẹp bằng mẹ, với ước da ngăm. Chị lấy chồng người Sàigòn nhưng đã thôi nhau, chị có 1 trai tên Ngà. Chị nuôi con bằng gánh bông cỏ, hột lựu.
Anh Tư Lang giống mẹ, có nước da trắng hồng, dáng thư sinh ốm mảnh khảnh, làm Cảnh Sát văn phòng. Vợ anh là chị Thêu, có nước da ngăm, người mảnh mai với nét đẹp không son phấn, có với nhau 1 trai tên Phong. Anh có nét chữ rất đẹp mềm mại như con gái. Chơi kết bạn thư tín, báo hại một chàng trai si tình lặn lội từ Sàigòn xuống tìm. Khi chạm mặt mới vở mộng, ôm bầu tâm sự nặng chịch ra về.
Nguyễn Văn Lang
Thanh Hiền
Anh Tư Lang sanh năm 1936 ( Bính Tý), chênh lệch hơn tôi gần 10 tuổi. Dù ở chung trong đất, lúc chị Thêu chưa bỏ đi. Tôi chưa lần nói chuyện với anh, có gặp thì cúi đầu chào rồi đường ai nấy đi. Từ hôm nghe tin chị Thêu bỏ nhà đi, bỏ lại cháu Phong còn rất nhỏ, nhớ mẹ nên khóc, làm tôi bỗng nao nao, thương cảnh gà trống nuôi con.
Lúc trước khi tôi chưa đi trong Thanh Nữ Cộng Hoà, thì anh chưa để ý đến tôi, cho đến lúc tôi thay đổi cách ăn mặc để đi học tập bắn súng trong Thanh Nữ Cộng Hoà, nên trông ra vẽ người lớn. Anh tìm cách làm quen và kiếm cớ hỏi thăm. Khi bắt gặp ánh mắt buồn thăm thẳm của anh nhìn trộm, lòng tôi bỗng xao xuyến lạ mà tự hỏi lòng mình " chẳng lẽ mình yêu anh ta ? "
Em vừa mười sáu trăng tròn
Nhà anh bên đó ở gần nhà em
Gặp nhau trước lạ, sau quen
Chớm yêu nên mới đêm đêm ước thầm
Từ thương hại đến Tình Yêu bao giờ chẳng biết. Tôi không nghĩ chuyện phá gia cang người khác, mà tự bào chửa cho mình vì chị Thêu đã bỏ đi. Biết mình dại dột khi yêu anh, nhưng không sao chống nỗi ánh mắt buồn não nùng như thôi miên ấy. Nó cuốn hút tôi vào mối tình đầu đầy phiêu lưu, mạo hiểm. Tôi bước vào Tình Yêu quá sớm khi tuổi 16 tròn trăng. Chuyện tình cảm đó sẽ phôi phai đi nếu như anh không khơi màu trước, vì bởi làm thân con gái dẫu có thương ai cũng ôm lòng cam chịu.
Tình yêu đúng nghĩa cho không
Thiệt thòi chỉ khách má hồng nhận thôi
Yêu ma lưới võng giăng rồi
Loài người mê muội thành loài thiêu thân
Khi yêu muốn kết Châu... Trần
Mấy ai vẹn được một lần vào yêu!
Trong Tình Yêu, người con trai luôn đòi hỏi sự dâng hiến của người con gái. Khi đã thoả mãn sự thèm khát thì Tình Yêu cũng tàn theo, và họ sẽ xem thường vì người con gái quá dễ dàng. Khi anh tỏ ý đòi hỏi, tôi vẫn cón sáng suốt mà trả lời rằng : " Em chỉ chìu anh khi nào em là vợ của anh! ".
Tình qua ghé đảo thần tiên
Cùng hoa với bướm kết duyên Tấn, Tần
Ước mơ đi trọn đường trần
Đôi câu hò hẹn vài lấn rồi thôi...
Chỉ vài lần hẹn hò, chỉ dăm ba cái hôn vội vàng, dù đòi hỏi nhưng anh không có ý chiếm đoạt mà không có sự đồng ý của tôi. Hai đứa chưa vượt qua vòng lễ giáo. Tôi vẫn còn trinh nguyên đời con gái, để khi về nhà chồng không hổ mặt mẹ cha. Anh cũng thừa hiểu thân phận mình nghèo, lại nữa đã qua một đời vợ thì chẳng có hy vọng gì.
Cái đảo Cấm ngày nào buồn hiu quạnh, khi Tình Yêu đến bỗng biến thành " đảo thần tiên " . Khu vườn biến mất vẻ âm u lạnh lẽo, quanh tôi vườn xanh rẩy biếc, nắng ấm áp nồng nàn, làm hồng thêm đoá ô môi chớm nở, mà dây trầu âu yếm quấn quít thân cau. Dù chưa " thề non hẹn biển " nhưng trái tim thơ dại của tôi mơ ước một mái ấm gia đình.
Đảo thần tiên bướm với hoa
Nghe chim trổi khúc hoan ca yêu đời
Trầu xanh hứa hẹn mấy lời
Cùng cau mai mốt sẽ ngồi chung mâm
Sợ má bắt được thư, để đánh lạc hướng những lá thư tình anh viết để tên " An Tuyết ". Tôi dấu thư trên mái ngói, nhưng... cử chỉ và ánh mắt si mê của anh nhìn tôi không qua được cặp mắt tinh vi của má. Rồi chuyện tan vỡ bỗng đến như cơn lốc không định trước.
Tình vui khi mới trao tay
Ngọt như trái chín hay cay đắng lòng
Tình xa như sáo sang sông
Giây oan lỡ buộc vào vòng tình yêu
Má chỉ nghi ngờ tôi có tình ý với anh, nên ghép tôi vào cái tội " hư hỏng ". Không cần bằng cớ, không cần biết sự thật ra sao. Má căng tôi đánh trước đã, từng lằn roi bổ xuống đau điếng. Tiếng khóc tức tưởi của tôi không át nỗi tiếng mắng chửi của má:
-Thứ con gái hư! Mới nức mắt đã mèo mã gà đồng! Chị Năm mầy hư cũng tại cậu! Sắt tao còn bẻ được huống chi mầy!
Nghe lời buộc tôi mà tức, trai gái yêu nhau hình như là một sự nhục nhã không thể tha thứ. Tôi bị xử ngược vì tội nhẹ dạ " lỡ yêu mà không xin phép ". Cái thảm cảnh ấy bởi cách giáo dục quá ư tàn nhẫn kia. Thì ra đối với má Tình Yêu là một trọng tội ghê gớm. Má hâm doạ:
-Mầy mà không chấm dứt với nó thì tao đuổi nó ra khỏi đất ngay! Cái thứ đèo bòng đi quyến rủ con gái nhẹ dạ! Tao cấm từ nay không được gặp nó nữa! Lần này tao nương tay! Lần sau tao xởn đầu, bôi vôi mang mặt xấu cho thiên hạ biết!
Má buông roi ra, mắng tôi một hồi rồi bỏ qua nhà dì Bảy. Tôi biết tánh má hay nói thẳng, thế nào rồi cũng nặng nhẹ dì Bảy, sẽ làm gia đình anh tủi thân, vì nghèo phải ở nhờ trong đất. Má dùng quyền hạn làm mẹ để chia rẻ Tình Yêu. Không chấp nhận vì anh đã qua một đời vợ và mang cái tội là " Nghèo ". Người hả hê nhất có lẽ là chị Sáu Hoa?
Nguyễn Văn Lang
Đời chia hai đứa hai nơi
Tình pha mật đắng lằn roi đau vùi
Với người thoáng mất ngày vui
Bên giồng khoai tím rồi nùi giây oan
Mối tình đầu kết thúc bằng những lằn roi rướm máu hằn vào da thịt, bằng mật đắng pha trong nước mắt, tôi như hoa ô môi héo rủ. Nhà chỉ cách một cây vú sữa, một giồng khoai mà cảm thấy như nghìn trùng xa cách.
Nhà anh chỉ cách giồng khoai
Cách cây vú sữa chia hai đứa mình
Bởi chưng Nguyệt Lão vô tình
Hay vì cha mẹ chẳng nhìn đôi ta
Mối tình đầu ngắn ngủi không quá hai mùa trăng, tình chưa đầy mà chợt khuyết như vầng trăng hò hẹn. Tình Yêu đầu đời đã chết, chợt tan như bóng mây, mãi mãi anh sẽ trách tôi là kẻ phụ tình!
Em còn trong trắng ngây thơ
Tình đầu đánh mất ước mơ chẳng thành
Thơ tình trả lại cho anh
Me thì ngăn cấm nên đành xa nhau
Cầm những bức thư gói ghép Tình Yêu đầu đời, tôi áp vào tim mà nghe lòng chua xót, dòng lệ tủi hờn không làm dịu nỗi đau, nỗi xót buổi ly tan!
Với người ta lỡ duyên đầu
Hai mùa trăng lạnh bỗng sầu nghìn năm
Kể từ hôm đó, tôi bị nhốt trong nhà " trừng giới " , bị trừng phạt vì cái tội " chưa được lệnh mà đã dám yêu " . Tôi như thân tre non, má uốn nắn tôi vào khuôn khổ " sắt thép " của người. Sợ tôi trốn đi như lần trước nên má giữ tôi riết một bên, tôi bị canh giữ còn gắt hơn " tù ".
Nghiệp - Duyên
Cõi này duyên nợ... nợ duyên
Bèo mây tan hợp luỵ phiền ngẩn ngơ
Với anh chỉ mối duyên hờ
Oan khiên ân oán bao giờ mới tan
Theo nghiệp lực của mỗi người, cả ba duyên, nợ, nghiệp không thể tách rời nhau. Nếu chỉ là duyên mà không nợ thì khó mà kết hợp lại với nhau, chuyện vợ chồng có khi là túc trái oan khiên, ân oán nhiều đời nhiều kiếp. Chúng ta bị nghiệp lực dẩn dắt nên sanh ra ở thế gian này để trả nghiệp báo tiền kiếp của mình. Khi đến thế gian này, chỉ tấm thân trần trụi mà tiếng khóc là sự báo hiệu trước sự đau khổ mà kiếp người phải nhận lấy. Như tất cả vạn vật đều không tránh khỏi sanh, tử, luân hồi.
Ta đem tiếng khóc vào đời
Đến ngày oan trái khiến người gặp ta
Giây tơ rồi gở chẳng ra
Bỗng nhiên vướng nợ oan gia kiếp nào
Cùng một kiếp người, người sanh ra có trí tuệ thông minh, kẻ thì ngu đần khờ khạo. Kẻ giầu sang dư thừa, người nghèo khổ thiếu thốn. Kẻ thì xinh đẹp, người xấu xí tật nguyền, có kẻ mới sanh ra đã mù loà tăm tối. Ta hiểu ra do cái nhân đã từ kiếp trước, kiếp này phải hái quả thôi. Biết được như thế thì ta sẽ không khổ khi nghịch duyên đưa đến.
Quả nhân... nhân quả trả vay
Cho nên phải chịu kiếp này mà thôi
Cùng sanh ra một kiếp người
Kẻ thì giàu có người thời hàn vi
Có khi những người chồng vũ phu luôn đánh đập vợ con rất tàn nhẫn, Thế mà người vợ vẫn phải chịu đựng sự hành hạ đoạ đày đó không thể bỏ nhau được. Có khi người phụ nữ đó phải trả hết cả cuộc đời. Nhưng cũng có những phụ nữ khi bị dồn đến đường cùng, họ phản pháo lại ra tay hạ sát kẻ đầu ấp tay gối không chút nương tay. Nguyên nhân nào mà họ có thể cầm dao, châm lửa đốt chồng như vậy?
Vì đâu gây khổ cho nhau
Phải chăng thù hận kiếp nào lỡ vay
Vì đâu nuốt lệ đắng cay
Như trong địa ngục ngày ngày không yên
Những án mạng thê thảm ấy vẫn thường xảy ra, như những hồi chuông báo động ấy không làm bớt sự bạo hành trong gia đình, mà hình như càng tăng thêm. Trong khi ấy 10 người đàn ông Việt Nam thì hết 9 người đã làm nô lệ cho " ma men ". Rượu nếu dùng quá liều thì không thua loại ma tuý, làm mờ lý trí, có thể giết cha mẹ, vợ con. Và không thiếu những bà vợ mê bài bạc, khi lún sâu vào không lối thoát mà đang tay hạ sát chồng.
Vợ chồng là nợ, là duyên
Cũng là ân oán triền miên kếp nào
Gây bao đau khổ cho nhau
Mà duyên với nghiệp cột vào kiếp mai
Đàn ông là trụ cột gia đình, mà cái trụ cột quá yếu ớt, không đào mống xây cho vững chắc, không sớm thì muộn sẽ phải sụp đổ là lẽ đương nhiên. Dù nặng hay nhẹ, cả hai đều bị thương tích. Cái nền tảng gia đình không có, thì làm sao tạo được hạnh phúc gia đình. Có những cuộc hôn nhân do cha mẹ định đoạt, còn quá trẻ đâu biết bổn phận, trách nhiệm là gì. Sanh con nhưng không có khả năng nuôi nấng cho tử tế, chỉ thêm nặng cho xã hội.
Nếu như người chồng biết cách xây dựng hạnh phúc gia đình, như cái cây cần được chăm sóc thì Tình Yêu mới nẩy nở, không phân bón thì chớ lại bỏ độc tố vào cây. Không có hoà hợp giữa hai tâm hồn, không hiểu nhau, không cảm thông, cả hai đều không nhìn về một hướng. Rất hiếm những cập vợ chống biết tương kính lẫn nhau, lúc nghèo cũng như lúc giầu không thay lòng đổi dạ, giữ vẹn chữ thuỷ chung.
Vợ chồng tương kính lẫn nhau
Như cá với nước khác nào tay chân
Làm người trọng chữ nghĩa nhân
Giầu sang, nghèo khó duyên phần thế thôi!
Má sợ tôi bắt chước theo chị Năm nên ngăn ngừa trước, vì thế cuộc đời của tôi được người phát hoạ và đóng khung sẳn. Cứ mỗi lần có người mối mai đến dạm hỏi thì tôi sợ đến mất ăn mất ngủ, chẳng biết má sẽ nhận đám nào? Mấy tuần trước có hai đám ở Phước Hoà, trong đó có một người tên Nhung. Cả hai đám má đều từ chối , viện cớ là tôi còn nhỏ.
Xóm chùa phần nhiều dân từ Phước Hoà, họ giã vờ đến mua bánh tráng, rồi lân la xuống bếp coi mắt nàng dâu. Tôi thì quá vụng về , đâu biết gì mà làm dâu, bộ họ " mắt lé " hết sao cà? Câu "mua heo chọn nái, cưới gái chọn dòng ". Nhà đông là nhà có phước, chẳng biết có phước hay vô phước đây?
Ngày 29-4-1961 âm lịch năm Tân Sửu. Mặc dầu chị Hoa làm dâu có mấy tháng và chị đã bỏ đi. Khi nghe tin má chị qua đời, má nghĩ tình dù gì đi nữa cũng là sui gia, nên mới lên Phước Hoà phúng điếu. Từ ngày bị ép duyên tôi bỏ trốn, kế bị trận đòn vì vượt rào, đi đâu má cũng bắt tôi đi theo để dễ bề kiểm soát. Oan trái đã chờ sẳn tôi ở đấy, mà " Định Mệnh " đã đưa đẩy tôi vào con đường oan khiên nghiệt ngả từ hôm đi đám tang ấy. Cái biến cố mà tôi linh cảm đã đến!
Gặp người đời chít khăn tang
Đến ngày oan trái lệ tràn biển Đông
Người đem trái đắng ra trồng
Ta vô tình hái lọt trong lũng phiền
Má chị Hoa tên Đặng Thị Thời gốc Phước Hoà, ba chị là nhà cách mạng Nguyễn Văn Tây. Trong cuốn Ai giết Trung Tướng Nguyễn Bình có viết về ông. Ông đi tù Côn Đảo rất nhiều năm. Bà Thời có con gái riêng là chị Hai Khương. Hai người anh trai của chị Hoa là Ba Hội còn gọi là Bòn được người bác không con ở Sàigòn nhận làm con nuôi. Tư Xê có vợ là Hà đã con bồng con mang. Anh em Hội đều lấy họ mẹ, vì cha vào bưng kháng chiến. Trong mấy người con không ai nên danh phận gì, một người con trai được người dì nuôi ở Long Thành chết lúc vô bưng, và đứa em trai út tên Nhẫn theo nghiệp cầm ca.
Tôi không có họ hàng miệt Phước Hoà, thấy toàn người lạ nên thẹn núp sau lưng má. Thấy Nhung chỉ trỏ về phía tôi và nhỏ to với Hội. Nhung gọi Hội bằng " cậu Ba ". Nhiều cặp mắt nhìn về phía tôi bàn tán. Mới gặp hắn (Hội) , tôi chạm phải ánh mắt " Bùi Kiệm " hau háu nhìn như muốn lột trần làm tôi cảm thấy khó chịu. Tôi quay mặt không thèm chào, tỏ vẽ ghét ra mặt. Có lẽ Nhung đang khoe với cậu là đang dạm hỏi tôi mà chưa được? Đã gây sự tò mò của người con trai Sàigòn , hay là một cuộc thách đố? Hắn bám sát theo má săn đón, rồi mượn cớ đưa má với tôi về Bà Rịa.
Biển Sầu nước chảy sang Tây
Con thuyền Định Mệnh chở đầy đau thương
Sương tan nhỏ giọt trong vườn
Nắng, mưa thì cũng thấy buồn phương Nam
Ngọn gió chướng từ thành đô bỗng tạt qua ruộng đồng cỏ nội, làm xanh xao đời lá, làm khô cằn đời cây. Như gã " ác thần " ghé đến đâu mang tai hoạ đến đó, như lời nguyền từ muôn kiếp mà nghiệt oan vây chặt lấy tôi. Trong cái nhìn của hắn tôi thấy không ổn. Đôi mắt bất chánh ấy sáng lên khi trồng thấy bề thế của má.
Thời ấy người nghèo thường nhà tranh vách đất. Gia đình tôi thuộc hàng khá giả, nhà ngói mấy căn vườn tược xum xuê. Tôi nghĩ nếu má nghèo thì tình thế có lẽ sẽ đổi khác.
Cũng vì hai chữ phu thê...
do cha mẹ đặt ê chề đời ta
Cũng vì áo chẳng mặc qua...
khỏi đầu nên mới lệ sa ngập ngừng
Từ một cô gái quê bị cấm cố, chưa lần bước ra khỏi luỹ tre làng, thì làm sao mà tôi gặp được hắn. Phải công nhận hắn có bộ vó bên ngoài. Tướng hắn nhỏ con, chỉ cao hơn tôi một tí. Gương mặt xương mang vẽ đẹp Tây Phương, hắn giống Tây lai không có nét gì của người Việt. Đôi chân mày thật sắt cân xứng với đôi mắt hai mí mơ màng quyến rũ cùng đôi lông mi dài cong vút , hàm răng thì đều như hạt bắp. Cái mũi két thật cao " nham hiểm " đã nói lên con người hắn. Trông hắn đẹp như "Phan An- Tống Ngọc" . Nói về sắc thì hắn quá hoàn hảo không chê vào đâu được, mới nhìn qua cái võ bề ngoài rất dễ làm xiêu lòng người.
Lọc lừa từ buổi sơ giao
Mẹ lầm bởi tiếng ngọt ngào êm tai
Vợ chồng hai tiếng mỉa mai
Chữ thương đắng ngắt mà cay chữ thù
Cái ánh mắt quyến rũ đó không làm tim tôi rung động, cái vẽ đẹp bên ngoài đó không làm tôi si mê. Cảm thấy ghét người khách bất đắc dĩ ấy, tôi bỏ ra nhà sau không thèm bưng nước mời khách, mong hắn đi quách cho rồi. Má xuống nhà sau bảo tôi dọn cơm đãi
khách. Tôi càu nhàu, má ré lên:
- Nó tử tế đưa mình dìa! Mời có bữa cơm có chết chóc gì mà bây mặt sưng mày sỉa!
Má giận bỏ lên nhà trên. Tôi hậm hực;
-Chỉ có bộ vó tốt mã! Chỉ cái thứ lợi dụng chứ tử tế gì!
Sau bữa cơm, hắn " cố ý "kéo dài thời giờ cho trể hết chuyến xe về Sàigòn . Má bắt tôi dọn buồng của anh Ba cho hắn ngủ lại. Hắn mon men đến làm quen, tôi ầm ừ cho qua chuyện. Tôi là gái quê, đâu có gì mà dám làm cao, chỉ vì tôi đang yêu Lang và đang đau khổ vì má ngăn cấm, nhìn hắn như một chướng ngại nên ghét hắn ra mặt.
Đến hôm sau, rồi một tuần... hai tuần... Loại tằm gửi kia rễ đã bám chặt vào thân cổ thụ cứng ngắt hơn cả keo dính chuột. Hắn thuộc loại người quỷ quyệt, đầy thủ đoạn và khôn ngoan. Hắn quán sát và nhìn thấy uy quyền của má nên hắn chẳng cần theo đuổi tán tỉnh tôi nữa, mà chuyển hướng, nhắm vào bà mẹ quê mộc mạc thích lời mật ngọt kia. Khi mà người đã ưng thuận rồi thì tôi " chạy trời không khỏi nắng ".
Như con " dê dội lốp cọp ", thêm sự xảo quyệt của con cáo già, hắn dùng hết sở trường, mánh khoé cho bà mẹ quê vào bẩy. Chỉ trong mấy tuần mà hắn đã thành công, tiến một bước dài chinh phục một người nỗi tiếng " khó nhất xóm ".
Khí giới lợi hại nhất là miệng lưỡi " Tô, Tần ". Hắn đã nhìn thấy nhược điểm của đối phương, bởi má tôi thích lời ton hót và sắc diện bên ngoài. Nhà có con gái lớn mà lại dám chứa chấp người đàn ông lạ mặt trong nhà. Má bất chấp lời dị nghị của lối xóm. Lời tuyên bố của má làm tôi choáng váng:
- Bây là lính tráng bộ muốn đào ngủ hả? Tao hứa gả nó cho!Dìa trển đi rồi tao tính !
Nghe qua mà tôi cứ ngỡ mình nghe nhầm, giống như má đang bị " bùa mê ?" Người không cần tìm hiểu đời tư của hắn, không cần mai mối. Lại mâu thuẩn, ngày nào chê Lang lớn tuổi, còn hắn tuổi Ất Hợi lớn hơn Lang nữa, vậy mà má chấp nhận gả tôi " vô điều kiện ". Cũng gần 10 đám mối mai trầu cau xin cưới, đám nào má cũng chê, rồi viện cớ tôi " còn nhỏ ". Thế mà chỉ mấy tuần thì tôi đã trưởng thành. Tôi nghe phong phanh là hắn đã có vợ rồi?
Lời hứa của má như sợi dây oan nghiệt, tròng vào cổ tôi muốn nghẹt thở. Má lạm dụng quyền làm mẹ, trói buộc tôi vào sợi dây xích hôn nhân kiểu xa xưa, không cần giấy tờ hôn thú. Má dạy tôi một đường rồi làm một nẻo. Tôi mới 16 tuổi ta, cái tuổi tròn trăng đẹp nhất, tôi không muốn lấy chồng, không muốn bị trói buộc, nhưng tôi không được quyền chọn lựa.
Hắn đã 26, một gã thanh niên Sàigòn tân thời, tôi thì lại quá quê mùa không cân xứng, đứng với nhau như đủa so le. Hắn chỉ có hai tay không, chẳng có đến một chiếc nhẫn, nhờ miệng lưỡi mà " chuột sa chỉnh gạo ". Người ta bỏ tiền ra " mua dâu " , ngược lại má bỏ tiền ra " mua rể " . Giống như tôi có chửa hoang không bằng, cần cưới gấp để khỏi xấu hổ với lối xóm. Tôi cảm thấy mình như là " con vật " ế ẩm bán chẳng được, đem cho không còn phải bù thêm tiền.
Mâm trầu khai rượu làm đầu
Ông mai bà mối cau trầu mua dâu
Mẹ ơi cũng bởi vì đâu
Để con hận tủi qua cầu truân chuyên
Đám tang mẹ hắn vào cuối tháng tư, hắn đại diện gia đình để đưa má với tôi về, và ở lì cho đến khi má hứa gả . Hắn trở về Sài gòn giữa tháng 5, sau đó phải vào bệnh viện giải phẩu mũi. Lúc nằm trong bệnh viện tình cờ làm quen rể chú Tư Chà, biết có họ hàng với gia đình tôi, nên nhờ mang thư về. Má không biết chữ nên bắt tôi đọc. Phải chi tôi biết nói dối, đọc khác hơn lời trong thư, thì tình hình sẽ khác hơn, cũng bởi tôi quá thật thà viết sau thì tôi đọc vậy.
Má thấy tôi thất tình ủ rũ, người vốn biết tánh tôi ương ngạnh, khi chịu đựng quá sức tôi sẽ đâm liều. Nhà Lang thì cạnh bên, người sợ tôi trốn đi theo Lang nên tính trước. Hắn lại về , tôi thấy má cùng hắn nhỏ to, có vẽ bí mật , tôi nghĩ má bàn tính ngày cưới. Dù tôi không bằng lòng, nhưng không dám phản đối, giả vờ chịu đèn để má khỏi nghi, cố kéo dài chờ thời cơ thuận tiện sẽ tìm cách trốn đi lần nữa.
Em vừa mười sáu trăng rằm
Mẹ vừa tính chuyện trăm năm với người
Em buồn nước mắt cứ rơi
Vừa thương bữa trước mất rồi bữa nay
Anh Ba, anh Sáu phục vụ trong Bộ Binh , anh Tám trong Cảnh Sát, ở nhà chỉ còn Mười Thanh và út đều còn nhỏ, không giúp gì được cho tôi. Tôi cầu mong các anh về đúng lúc để ngăn chận cuộc hôn nhơn này. Bởi má mê muội , không nghe tiếng khóc đau thương của tôi. Những giọt nước mắt không làm người xúc động.
Ngày oan trái đêm nghiệt ngã
Mẹ ơi sao nở ép duyên
Để con ôm trái sầu riêng một mình
Dạy con hai chữ tiết trinh
Để con tủi nhục mẹ nhìn đành sao
Vào đầu tháng 7-1961 âm lịch. Đêm ấy, trăng thượng huyền ẩn mất trong mây, vòm trời âm u xám xịt, vườn sau tối thui. Tiếng côn trùng rên rỉ càng làm lòng tôi áo não, vẳng xa xa tiếng chó sủa ma từ xóm dưới nghe rờn rợn lạnh mình. Trong cảnh tịch mịch, khiến tôi nhớ lại cũng nhằm mùa Vu Lan, cách 5 năm về trước, tôi mồ côi cha. Những khi buồn khổ như thế này, tôi chỉ biết van vái cậu phù hộ cho tôi đủ can đảm mà vượt qua bao thử thách sắp đến.
Từng gáo nước mát lạnh xối lên người, như trôi đi những mệt nhọc lẫn bực bội vì phải lo cơm nước cho người khách mà mình không ưa. Chợt nhớ hồi chiều lúc mình dọn cơm, chạm phải ánh mắt thèm khát hắn nhìn mình như muốn ăn tươi nuốt sống làm tôi sợ thầm. Nhìn thân mình trắng nuốt lồ lộ những đường cong nét dợn. Dù đã qua một cuộc tình, mà người thôn nữ vẫn còn trinh nguyên chưa có một tỳ vết. Tôi không dễ dàng để cho phái nam lôi cuốn, và xem thường .
Từ nhà tắm bước ra, tôi chợt giựt mình vì má đứng lù lù không biết từ bao giờ? Người ra lệnh:
-Tối nay bây vô trỏng ngủ với nó!
Tôi sửng sốt đứng chết trân như trời trồng, tối tăm cả mặt mũi. Quyết định chớp nhoáng của má quá bất ngờ ngoài sức tưởng tượng, như cái búa của Thiên Lôi giáng xuống làm tôi không đở kịp. Bao quanh tôi như màn lưới thiên la địa vỏng, chẳng có một kẻ hở để trốn. Tôi tự hỏi thầm: " chưa đám cưới mà sao kỳ cục vậy? " Tôi nghĩ chỉ có 3 điều duy nhất:
1 - má nghĩ tôi đã thất thân với Lang
2- má muốn đánh mạnh, đánh mau, để tôi trở tay không kịp
3- Khi ván đã " đóng thuyền " thì mới ngăn chận được Tình Yêu của tôi với Lang.
Vở bi kịch mới mở màn lại quá đau thương như " đoạn trường kiều " , mới nhập đề đã không mạch lạt mà nhầy nhụa đau xót, thấm đẩm nước mắt. Tôi cảm thấy đời mình vừa " bế mạc ". Nhìn má tôi muốn gào to lên:
-Má ơi! Sao nở nào má giết chết đời con!
Nhưng tiếng thét bị nghẹn ngay cổ. Lệnh của má làm tôi đau đớn, đôi mắt lạnh lùng đầy quyền lực làm tiềm năng trong tôi rũ liệt, dù người không cầm roi, nhưng tôi vẫn còn nhớ trận đòn đau điếng hôm nào. Dù má không trói, nhưng tay chân tôi không vùng vẫy nỗi. Tôi ríu ríu nghe lời như một tín đồ ngoan đạo. Tôi vâng lời làm vui lòng má, cũng chính là tự giết đời mình. Từng bước chân run rẩy bước vào buồng anh Ba như bước vào " địa ngục ", nhưng tôi vẫn u mê bước tới như người bị thôi miên. Tôi bị tẩy não mất rồi!
Em vừa mười sáu trăng gầy
Người đâu xa lạ nở đày đoạ ta
Qua cầu nước mắt xót xa
Nửa đau, nửa tủi ai mà biết đâu
Má tính nước cờ cao, nghĩ rằng khi " ván đã đóng thuyền" , thì tôi sẽ khép mình vào khuôn khổ. Má dùng uy quyền để khống chế và áp bức và xem tôi là vật sở hữu của người. Chưa cưới mà đã bắt ép con gái động phòng trước. Tôi suy nghĩ nát óc cố tìm một câu giải đáp hợp lý nhất, để biện hộ cho việc làm ngược đời của người. Nhưng đành chịu không hiễu nỗi. Chuyện khó tin khi má là người thủ cựu, khó tánh nhất xóm.
Tôi chỉ tự an ủi mình bởi do " túc trái oan khiên " giữa tôi và má. Má có thể làm bất cứ điều gì người muốn. Tôi cảm thấy má đối đải với tôi bằng " bạo lực " đã huỷ diệt cuộc đời tôi. Má dùng uy quyền để khống chế và xem tôi là vật sở hữu của người .
Mẹ vừa giết tuổi thơ ngây
Con trong bể khổ đoạ đày tháng năm
Cũng đành nuốt lệ hờn căm
Có đau cũng chỉ đau thầm mà thôi
Má từng dạy con trọng chữ " tiết trinh ", rồi chính người đem ra bán rẻ. Tôi bị ép " hiến thân " cho kẻ " bịp bợp " không ra gì . Người không nhìn thấy tôi đang đau đớn, đang rên xiết kêu than trong vô vọng. Biết rằng trong đó, gã ác thú đang mài răng chờ , nhưng tôi hoàn toàn bất lực, sợ hãi trước con thú mang lốp người.
Phận tôi như hạt mưa sa
Hạt rơi trên lá hạt qua nhà người
Phận tôi như cánh bèo trôi
Ghé qua bến đục nên đời tối tăm
Tình vợ chồng không có sự hiến dâng mà là sự " cưởng hiếp " công khai. Vợ chồng là kết hợp giữa " duyên và nợ ", còn tôi với hắn, hình như cái nợ quá nặng nề từ kiếp nào mà tôi đã lỡ vay? Như gã Trư Bát Giới, khi ăn vụng nhân sâm, chộp nuốt trọng mà không biết mùi vị ra sao. Hắn cũng thế , như con hổ say mồi, ngoạm lấy con mồi rồi nuốt trọng. Tôi nhắm mắt với tủi nhục tận cùng, trong cái đau đầu đời, bàng hoàng như vừa qua cơn ác mộng. Dòng lệ nuối tiếc tuổi trong trắng thơ ngây bỗng lăn dài trên má . Tôi khóc trong âm thầm cay đắng, chịu đựng cái đau từ thể xác lẫn tâm hồn!
Người thèm khát loạn cuồng trong dục vọng
Ta ê chề đau đớn tuổi thơ ngây
Ta nhắm mắt cứ ngỡ là ác mộng
Mối hận này ai đó đã lỡ vay !
Nằm bên người đàn ông xa lạ , dân " tứ chiến giang hồ ", quá sành sỏi lịch lãm. Ngoài kia tiếng gió hú thổi qua ngọn tre tàu nghe rờn rợn. Tiếng thân tre chạm vào nhau kẻo kẹt, tôi tưởng tượng như tiếng con hổ đang mài răng để làm thịt con mồi lần nữa. Đêm hun hút, gió rên rỉ than van, tiếng côn trùng rỉ rả trong bóng đêm, tiếng cú rúc ngoài vườn sau nghe càng lạnh người. Tôi thầm gọi cậu trong đau đớn " Con nhục lắm! Con khổ lắm cậu ơi! ". Chẳng biết cậu có nghe tiếng gọi đau thương của đứa con gái bạc phận này không? Mà cơn gió luồn vào khe ván làm ngọn đèn dầu chao chao... Nơi cõi âm, linh hồn cậu sẽ không yên vì tôi cứ gọi mãi tên người. Dù biết rằng người chết chẳng giúp được gì, nhưng lời than thở cũng làm nhẹ đi phần nào uất hận.
Tôi ao ước một vòng tay phụ tử
Ngã vào lòng mà khóc tợ trẻ thơ
Để kể lể nỗi đau cùng thân phụ
Rằng đời con lắm tủi nhục không ngờ
Hơn lúc nào hết, tôi đang cần những vòng tay yêu thương, nhưng cậu đã không còn, mà vòng tay của má đã khép kín từ lâu. Với anh trai thì quá tủi hổ, với chị dâu càng không thể giải bày, với người yêu càng thêm hổ thẹn. Má còn sống , nhưng từ đêm đó, hình ảnh người " mẹ hiền đã chết trong tôi ".
Từ đêm đó trong tận cùng đau khổ
Hình ảnh mẹ hiền đã chết trong tôi
Muốn nói với anh nhưng lòng tủi hổ
Khóc âm thầm trong cay đắng mình tôi!
Nếu má vì tiền đem bán con, thì có thể bào chữa cho hành vi mất lương tâm kia. Còn đằng này chưa gì đã bắt ép con gái động phòng trước, thì đạo lý lương tâm cuả người mẹ để đâu? Việc " Tiền dâm hậu thú ", là một điều tối kỵ mà người nở mang ra áp dụng. Tôi đã gieo nghiệp gì trong kiếp trước mà phải nhận sự " trừng phạt " này. Biết trách ai đây? Trách bà mẹ quê dốt nát, hay trách mình nhu nhược? Trách trời cao không thương kẻ khốn cùng, hay trách người gây cuộc bể dâu?
Từ đêm đó tôi băn khoăn tự hỏi:
- Tình mẹ con oan trái tự kiếp nào?
Mẹ hỡi mẹ con làm chi nên tội
Bởi dại khờ nông cạn hoá bể dâu!
Gió bụi kinh thành đã làm vấn đục mầu trắng qua cau mất rồi. Cơn gió chướng đêm qua, đã làm những cánh hoa ô môi tội nghiệp rụng tả tơi âm thầm bên bờ đất lở. Hoa trôi theo con nước đục về một góc đời hiu quạnh. Dây nhãn lồng eo sèo bởi người quên không tưới, như trái mãn cầu vú ép nên lạt lẽo vô duyên. Như chuyện vợ chồng miễn cưởng mà hơi hướng chẳng thân quen.
Mai về làm vợ người ta
Hoa ô môi rụng xót xa trong vườn
Tả tơi từng cánh rơi buồn
Rơi trong hiu quạnh phấn hương nhạt mầu
Cô gái quê hôm qua, nhìn đời bằng lăng kính mầu hồng với nhiều mơ ước, thì hôm nay người thiếu phụ 16, nhìn đời bằng lăng kính mầu đen tang tóc u buồn! Tôi thầm tiếc công gìn giữ, tưởng để trao thân gửi phận cho người xứng đáng, chẳng ngờ lọt vào tay kẻ bất lương. Biết thế chẳng thà ... ngày ấy trao thân cho Lang, để bây giờ lòng không hối tiếc.
Gìn vàng giữ ngọc uổng công
Vào tay tục tử má hồng tả tơi
Ta thua một ván cờ người
Đắng cay nuốt hận nghe đời hờn căm
Từ bao thế kỷ qua, bậc cha mẹ có quyền định đoạt cuộc đời của các con, bởi cái công mang nặng, đẻ đau. Và tôi không phủ nhận là má đã hy sinh rất nhiều cho chúng tôi. Nhưng kể từ đêm hôm đó, tôi nhìn được mặt trái của cuộc đời, bằng nỗi xót đau tận cùng của " lòng mẹ ". Người không gieo cho tôi hạt giống yêu thương, mà chỉ gieo những hạt sầu, để tôi cứ mãi đi hái trái đắng của cuộc đời. Từ đêm đó, tôi " hận đời" và "hận cả người sanh thành" Từ đêm đó, tôi đi tìm mải cái đáp số của bài toán khó" mình có phải là con ruột của má không? "
Nghi ngờ ta tự hỏi :
-Có phải mẹ ta không ?
Trời lặng thinh chẳng nói
Nghe đắng ngắt trong lòng !
Từ đêm đó, tôi nhục nhã nhờn gớm mình bao nhiêu, thì tôi càng hận hắn bấy nhiêu. Trong lặng lẽ, trong chua xót, tôi nhu nhược chấp nhận kiếp " nô lệ tình dục ".
Hắn đến với tôi không là Tình Yêu mà là sự toan tính tham lam và dục vọng. Người đàn ông đầu tiên trong đời, chẳng biết trân trọng tình cảm lứa đôi, thiếu trách nhiệm đến độ tàn nhẫn. Hắn thú nhận với tôi là hắn đã có " vợ " , nếu tôi làm vui lòng hắn thì hắn sẽ ở lại, nếu làm hắn buồn lòng thì hắn sẽ về với vợ hắn. Trong hắn như có hai con người, khi với tôi thì những câu nói phủ phàng tàn nhẫn:
-Tôi không dấu là tôi còn thương vợ tôi! Khi nào tôi chán cô! Tôi sẽ về với vợ tôi!
Khi có mặt má, thì hắn chuyển từ mặt đen ra trắng, trơn tru không vấp chỗ nào. Câu nói cay đắng biến thành lời mật ngọt.
" -Em là người vợ duy nhất của anh ! "
Những gì hắn nói với tôi hắn chối biến đi và má cho là tôi đặt điều nói thêm. Tôi tức vì hắn " nói dối " mà không sao chứng minh được. Để chứng tỏ hắn yêu tôi thật, hắn mua nhiều quần áo, dầy dép, những món đồ mà người đàn ông không dám mua cho vợ. Má nhìn những thứ ấy mà đánh giá là chàng rể yêu vợ thật tình. Má không biết cái mặt sau của nó. Hắn luôn nuôi cái " giả ", mà má ngỡ là " thật ".
Mẹ ơi trời chuyển mùa Ngâu
Ngoài kia mây bỗng giăng sầu chiều nay
Mẹ vừa giết tuổi thơ ngây
Con trong bể khổ đoạ đày tháng năm!
Dù chiếm được thể xác trinh nguyên, nhưng không thoả mãn vì biết chẳng chiếm được " trái tim " của tôi. Vì thế mà hắn cố tình gán ghép cho tôi đủ thứ tội. Cái miệng lưỡi kia như con dao hai lưỡi có thể làm chết người. Với cái tuổi 26, hơn tôi 10 tuổi. Từng là giới giang hồ trong băng đảng " Quốc Thanh của Huệ râu " khu Nguyễn Cư Trinh Sài gòn.
Vu quy tháng bảy ngậm ngùi
Hắt hiu lối cỏ buồn thiu gót hài
Hoa sầu nửa đoá chia hai
Cõi thơ tâm sự u hoài mùa Ngâu!
Ngày rằm Vu Lan tháng Bảy 1961, má không báo tin ngày đám cưới, mà để tới ngày giỗ cậu để tuyên bố luôn. Má làm gấp vì sợ chàng rể " quất ngựa truy phong ", sợ họ hàng phản đối. Anh Ba về phép, anh sửng sốt khi thấy hắn vào ngủ chung với tôi. Anh nhìn tôi muốn hỏi, tôi chỉ rướm nước mắt nhìn anh mà nói thầm (lần này anh không cứu em kịp, anh về trễ rồi ). Tôi gạt nước mắt quay đi, tôi nghĩ có nói cũng đã trễ cả rồi, càng đào sâu tình cảm gia đình. Cả anh Tám Búp người anh thân yêu nhất tôi cũng chẳng hé môi. Bởi cảm thấy mình quá nhơ nhớp, chỉ biết cắn răng mà chịu đựng.
Chẳng thà tôi hờn má một mình, không muốn mấy anh mất sự tôn kính cái hình ảnh người mẹ hiền tận tuỵ hy sinh. Có lẽ má mặc cảm đã thua bài học dạy con với chị Năm, nên chuyến này bằng "mọi giá ", bằng sức mạnh, bằng quyền lực của người mẹ, người đã " thắng cuộc ". Có lẽ người đã hành xử y hệt như trước kia, ông bà ngoại từng hành xử với người? Trong khi đó tôi phải trả cái giá " quá đắc " cho việc làm nông cạn của đấng sanh thành.
Bếp lửa đã tàn, nhưng lửa oán hờn trong tôi đang âm ỉ cháy, lời nguyền rủa của má như có ma lực làm tôi run sợ. Nó giết chết ý nghĩ chống đối vừa mới tượng hình trong tôi.
( Muốn tao từ như chị Năm mầy hông? Cái gương của chị Năm mầy còn đó! Con cái cãi cha, cãi mẹ sớm muộn gì cũng chết bất đắc kỳ tử! )
Tôi thấy tội nghiệp cho bà mẹ quê của mình, quá nông cạn không hiểu cái giá trị tinh thần. Không chỉ nuôi con bằng cơm áo là đủ, giữa mẹ con cần sự cảm thông và hiểu biết. Giáo dục con cái không phải là cuộc cờ hay canh bạc, thua ván này mà thắng ở ván kia. Người không cần biết chuyện đó, đâu cần biết con cái đau khổ hay hạnh phúc. Chính người đã huỷ diệt mạch sống trong tôi. Cũng vì thế mà tình thương của tôi đối với người bị bào mòn và tiêu huỷ. Từ đêm đó cánh cửa tình thương đã khép lại, " tình yêu mẹ đã chết trong tim tôi ".
Có lẽ má nghĩ rằng, cho lấy nhau đi, sau đó Tình Yêu mới nảy sinh, cũng như theo ông bà Tổ Tiên cũng làm thế, đến má cũng thế va đến đời tôi cũng thế. Vì má nghĩ như vậy, nên làm như vậy. Má không nhìn thấy con người thật của hắn, không thấy tôi sống trong đoạ đày và chịu đựng.
*****
Đám cưới hy hữu
Vu Lan ngày 17-7-1961 năm Tân Sửu, ngày đám giỗ của cậu lại biến thành ngày cưới của tôi. Nói đúng hơn là ngày má " mua chồng " cho tôi, một cuộc hôn nhân "cưởng bức " . Một đám cưới hy hữu nhất thế giới, bên nhà trai duy nhất chỉ có chú rể, mà cô dâu cũng lạ đời, thuở nhỏ thích đeo nhẫn, ngày cưới thì trơ trụi như gương mặt không son phấn, chỉ được đôi bông tai do má sắm cho mà thôi. Tôi không có áo cưới đẹp để khoe, không có một chiếc nhẫn để đeo, không có một tấm ảnh cưới làm kỷ niệm. Nói tóm lại tôi không có một đám cưới cho đúng nghĩa để mà hảnh diện.
Mượn người áo cưới vu quy
Áo buông hờn tủi ôm ghì thân tôi
Hôm qua trời khóc hộ rồi
Mịt mờ nẻo ấy rã rời mưa Ngâu
Lần đầu tiên được mặc chiếc áo dài cưới " vay mượn " của chị dâu. Chiếc áo cưới mầu xác pháo hồng tươi, đang nhục nhằn ôm lấy thân tôi, như cố che dấu vẻ xanh xao, buồn bã của cô dâu mới. Hình như chiếc áo cũng biết xót thương, cũng biết tủi hờn dùm cho cuộc đời tôi luôn là kẻ đến sau, như những cuộc tình vay mượn .
Trong cái trống rổng của tâm hồn, tôi như bức tượng biết đi, như cái hình nộm cử động do người điều khiển, trông khờ câm đến tội nghiệp. Tôi mơ hồ không ý thức được thế nào là bổn phận làm vợ, mà má cũng không có lời khuyên bảo với bổn phận làm dâu. Tôi mù mịt trước ngưởng cửa bước vào đời. Tôi cảm thấy hụt hẩng, chới với, như bị ai ném vào cuộc đời quá nhiều phiền toái này. Tôi bẻ bàng, tủi hổ, buồn hiu hắt quỳ bên hắn làm lễ gia tiên. Chung quanh tôi, các dì, các bác trong họ nhìn nhau khó hiểu. Chẳng ai biết được lời nguyện của cô dâu trong ngày cưới?
Quỳ bên tôi khấn nguyện thầm
Thù này muôn kiếp trăm năm chưa mờ
Lồng son nô lệ đang chờ
Ta như chiếc lá bên bờ tử sinh
Trộm nhìn sang kẻ chiến thắng đang tự đắc hân hoan, cười vui trên nỗi khổ của tôi, của những địch thủ, trong đó có Lang và Nhung cháu hắn. Gương mặt khả ố mất dạy đó hiện lên nụ cười thoả mãn, vì đã chiếm được thể xác cô gái 16 trinh nguyên, mà không tốn một " đồng xu " đi cưới. Trong khi đó má càng đắc ý vì đã " đánh bại " được Lang, và hãnh diện có chàng " rể quý ". Nhìn lại mình, kẻ bại trận đang quằn quại với vết đau loang lở. Lòng tôi nhen nhúm với mối " nội thù ". Tự thề với lòng mình.
"Dù mười năm hay suốt cuộc đời. Hắn phải trả cả vốn lẫn lời cho món nợ mà hắn đã vay hôm nay! Vì tôi sẽ như con ngựa chứng đi hoang! Thà làm mình hư hỏng, hơn làm vợ hờ cho kẻ xảo trá, bất lương ".
Đi tìm một bến nước trong
Mà sao chỉ thấy giòng sông đục lờ
Cuộc đời tôi lệ thuộc vào má, hôm nay lại lệ thuộc vào hắn. Tôi có trái tim nhiều tình cảm yêu thương, nửa chừng máu bỗng nghẹn vì mang quá nhiều hờn căm! Có khối óc nhưng không được phát biểu tư tưởng, mà bị má nhồi vô đầu những luận điệu cũ rích già nua. Mấy dì ngạc nhiên, nhất là dì Năm, dì trách má sao quá vội vàng:
-Làm gì mà gả gấp như cưới chạy tang! Bộ ế ẩm hay sao mà dì đem gả cho cái thứ trôi sông lạc chợ! Lầm thứ đào mõ có ngày nó vét cho mà sạch túi!
Má cũng không vừa:
-Con gái lớn rồi thì gả chớ để mần chi! Còn hơn để hủ mắm treo đầu giường!
Dì Năm bắt bẻ:
-Sao thằng rể có mình ên? Đàng trai đâu hỗng thấy! Nó còn nhỏ xíu lại gả cho cái thằng già khú đế bấm hỗng vô! Chọn rể hay quá nhắm cái thứ bá vơ!
Má tức nói liều:
-Con tui thì tui gả! Mắc mớ gì tới chị!
Dì Năm nghẹn lời hết ý kiến. Dì Bảy hiền nên không nói tiếng nào, còn Dì Mười biết phận mình nên nín khe. Giữa tiệc má với dì Năm cãi nhau tưng bừng như cái chợ. Má khư khư giữ vững lập trường, cho việc làm của mình là đúng. Mấy dì tức ấm ách lắc đầu chào thua. Nếu ấy dì có đem trầu tôi mang đến mà ra bói, thì trầu cũng đã héo xèo, vì cô dâu đã " thất thân " từ trước. Nếu dại dột vì yêu thì nó không đau bằng cái đau bị " cưởng hiếp công khai " với sự giàn xếp của người sanh ra mình.
Hắn đã nhìn thấy sự chống đối của họ hàng bên tôi, nhìn quanh hắn đơn độc chỉ có má là đồng minh. Bởi tháng thiếu, tình từ ngày mẹ hắn qua đời cho đến ngày cưới là " 2 tháng rưởi " . Đạo lý nặng về chữ hiếu, khi có đại tang con cái phải đợi mãn tang mới được phép cưới vợ gả chồng. Thế mà tang mẹ còn trên đầu chưa kịp tháo xuống hắn đã đi cưới vợ. Chuyện vợ chồng bắt đầu từ đám tang của mẹ hắn. Nó sẽ mù mịt như đêm tối, mà tương lai sắp tới sẽ hứa hẹn những ngày dài buồn thảm!!!...
Một người xem thường chữ hiếu, thì đối với tôi người dưng khác họ thì có nhằm nhò gì. Còn má theo lớp người xưa, xem đạo lý là trọng, lại không quan tâm đến việc xả tang, còn " đồng loả " với hắn làm bậy, má đã quên mất mùa Ngâu, cái mùa chia ly buồn thảm, cái tháng mà chẳng ai dám chọn ngày cưới. Hắn "tranh hôn " với cháu là Nhung. Nhung vừa đau, vừa tức, cay cú vì bị "cậu Ba " phỏng tay trên. Giờ Nhung phải gọi tôi là " mợ ". Ngày trước hắn là anh vợ của anh Ba, giờ xuống chức làm em rể, thật là một sự nghịch lý.
Hôn nhân là cái bình phong
Vợ chồng chỉ để che lòng thế gian
Lễ ra mắt nhân dịp đám giỗ chỉ là cái bình phong, để má tuyên bố tôi có chồng chánh thức. Người che đậy quá khéo, nức lòng với những câu khen ngợi:
"Con gái thiếm Bảy có phước! Lấy được người chồng đô thị đẹp trai, hào hoa ".
Ai cũng lầm là tôi may mắn, mấy cô thôn nữ trong xóm nhìn tôi mà ao ước, chớ họ có biết đâu tôi đang khóc cho số phận hẩm hiu của mình.
Đem cân bên nhẹ chữ tình
Nặng bên chữ hiếu thêm nghìn chữ đau
Cuộc mưu mô hôn nhân đã thành, kế hoạch như ý má mong muốn, mối lo ngại lớn nhất của má đã qua. Tôi như " con trâu " bị gã lái buôn xỏ mũi dắt đi. Ân huệ là vài nắm cỏ để chờ ngày làm thịt. Đi sâu vào cái xã hội khắc nghiệt phong kiến này. Cái xã hội luôn " trọng nam, khinh nữ ". Chữ hiếu nặng hơn chữ tình, dư luận thiên vị chỉ lên án kẻ vì tình mà bỏ chữ hiếu, chớ dư luận không lên án kẻ vì hiếu mà bỏ chữ tình. Vì thế biết bao nhiêu người con gái phải hờn duyên tủi phận.
Đảo tương tư lắm mây sầu
Ngày e nắng hạ đêm rầu mưa bay
Nhà anh đó, nhà em đây
Cách giàn trái đắng ngăn dây oan tình
Từ đó trên đảo Cấm mọc thêm rừng dây oan tình, nở ra toàn trái đắng. Thực tế quá phũ phàng như lòng người đàn ông đô thị kia. Đã mấy tháng qua tôi phải " đóng kịch " thương yêu hắn, để má không đuổi gia đình Lang. Mỗi khi tình cờ gặp anh, tôi quay mặt như người xa lạ. Thái độ khinh khỉnh của tôi đã đánh trúng vào tự ái của anh, thêm áp lực của má, làm anh càng tránh xa tôi.
Tôi yêu hoa lan và yêu người tên Lang , mà Tình Yêu chóng tàn như cánh hoa lan yểu mệnh kia. Anh như mấy nhánh phong lan trên cây mít, luôn tủi thân bởi phải ăn nhờ ở đậu. Anh làm sao hiểu được vì sao tôi phải đoạn tình? Anh nào biết tôi đang hờn duyên tủi phận, đang chết dở từ thể xác đến tâm hồn. Duyên thì quá ngắn ngủi, mà ngõ vào đời đã chia hai lối rẽ. Đường anh đi không có tôi, nhưng anh còn bổn phận và trách nhiệm. Đường tôi đi không có anh, bên người "chồng hờ " , đời tôi mãi mãi... lẻ loi.
Tủi thân em kẻ đến sau
Sông sầu mấy nhánh lệ đau mấy tầng
Hắn lúc nào cũng khôn khéo, biết cách nịnh bợ má vợ bằng những món quà lấy lòng, đổi lại là những " số tiền lén lút " má cho. Những đồng tiền đổ mồ hôi, xót con mắt, còng lưng của má, những đồng tiền lao nhọc của các anh, của chị dâu. Phải " bán mặt cho đất, bán lưng cho trời ". Thức đêm đi chài, lên rừng đốn gỗ...
Tôi thương hại sự dại dột của má, thương sự vất vả của các anh, chị. Xót xa nhìn đồng tiền lương thiện chạy qua túi áo kẻ " bất lương ". Hắn đưa tay nhận không một chút hổ thẹn. Những đồng tiền dành dụm, lao nhọc của gia đình được hắn mang ra phung phí với rượu ngon, gái đẹp.
Lọc lừa từ buổi sơ giao
Mẹ lầm bởi tiếng ngọt ngào êm tai
Vợ chồng hai tiếng mỉa mai
Chữ thương đắng ngắt mà cay chữ thù
Hắn thừa hiểu tôi chẳng bao giờ yêu hắn, nhưng hắn bất cần, chỉ biết má là " cái kho " chu cấp vật chất. Còn tôi là " cái bến ", đi giang hồ chán, lúc về có nơi để tạm dừng chân. Tình vợ chồng hờ nhạt nhẻo, tạm bợ không chinh thức. chẳng có cử chỉ yêu thương. Để tránh màn ghen tương vô cớ, tôi chỉ biết cung phụng khi hắn đòi hỏi. Tôi chán chường khi nhìn thấy sự hư hỏng, sa đoạ của hắn. Màn " bí mật " bao quanh con người hắn, chẳng bao giờ hắn dám rời cái bóp, cả những lúc đi ngủ. Hắn cảnh cáo:
-Tôi cấm em không được đụng tới cái bóp của tôi!
Khi tôi chọc hắn giận, hắn trở giọng đểu chọc tức:
-Mai mốt chán ở đây, tôi sẽ về với vợ tôi!
Tôi biết trước sẽ có ngày này, khi cái chân tướng của hắn lộ ra. Anh Tám Búp và tôi giải thích hơn thiệt với má, thế mà người lại gạt đi:
-Tại tao ép duyên bây nên bây đặt điều nói thêm cho nó! Hỗng lẽ từng tuổi này tao ngu hơn nó hay sao?
Cả đến anh Tám, cũng đồng quan điểm như tôi, đến anh nói mà má cũng chẳng nghe. Anh chỉ biết nhìn tôi, thương em gái nhưng chỉ biết lắc đầu. Hình như má bị " bùa mê ", bị thui chột bởi màn vô minh che khuất.Còn tôi vẫn tỉnh táo nhìn thấy sự thật, nhưng thành một kẻ khờ vì bị má " tẩy não ". Cái đau khổ nhất là , khi có mắt phải " giã mù ". Khi có miệng, phải " giả câm ", khi có tai phải
" giả điếc " .
Robert MC Namara
Vào tháng 5-1962, Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert MC Namara lần đầu tiên sang Việt Nam. Phái bộ Cố vấn và Viện Trợ Quân Sự Mỹ (MAAV) , được đổi tên là Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự Mỹ, do Tướng Paul D, Harkins chỉ huy. Vào tháng 7 và tháng 8 năm 1962, 30 Huấn luyện Quân Sự Bộ Binh của Úc Đại Lợi được gửi sang Việt Nam.
Đầu năm 1962, khi chương trình Ấp Chiến Lược đang trong thời kỳ trắc nghiệm. Thanh Nữ Cộng Hoà do bà cố vấn Ngô Đình Nhu thành lập, được huấn luyện cả về quân sự. Ngô Đình Lệ Thuỷ trưởng nữ của bà Cố vấn nỗi tiếng là tay thiện xạ có hạng.
Chuyến xe chở Thanh Nữ Cộng Hoà của tỉnh Bà Rịa lên Sàigòn diễn hành bị trúng mìn tại Phú Mỹ. Hai Thanh Nữ tử thương là chị Tăng Thị Út và chị Nguyễn Thị Ban. Một trớ trêu là cả hai gia đình của hai chị đều có người tập kết ra Bắc. Tôi nhờ mang bầu nên nghĩ trước nên thoát nạn. Bà Cố vấn Ngô Đình Nhu đến Phú Mỹ làm lễ truy điệu cho hai chị thật lớn, và dựng hai tấm mộ bia
Dù có hàng rào Ấp Chiến Lược , nhưng khủng bố của du kích càng ngày càng gia tăng, tử thần cứ viếng hết đầu trên lại xóm dưới. Máu đổ nhiều trên cánh đồng Ấp Chiến Lược. Súng cối từ mé rừng bắn vào tỉnh lỵ, súng cành nông bắn trả vào rừng, quả đạn pháo vô tình trúng nhà dân lãnh đủ. Người dân sống bấp bênh trong đe doạ chết chóc. Dù tan nát bởi đạn, bom, dù bao biến chuyển họ vẫn bám vào mảnh vườn. Có những người láng giềng mới gặp hôm qua, sau một đêm sẽ không bao giờ thức dậy.
Có những đám trẻ lớn lên, chung lớp, chung trường, đến tuổi trưởng thành lại chia hai lý tưởng. Đứa vào bưng, thằng vào lính. Bạn bè lối xóm ngày nào, bắt dế, thả diều... giờ biến thành thù nghịch. Anh em ruột thịt vì chia đôi đất nước, nên quay súng giết hại lẫn nhau, gây cảnh " nồi da xáo thịt ".
Anh Ba, anh Sáu vẫn còn trong quân ngủ, anh Tám Búp thì đăng vào Cảnh Sát đi thụ huấn ở Rạch Dừa. Mười Thanh đã lớn, đội giọng khào khào như vịt đực , cao hơn tôi cả cái đầu. Khác với anh Tám Búp tướng vạm vở, Mười Thanh cao lêu nghêu như cây tre gần đụng cửa. Tướng thư sinh giống cậu, giầy phải đặt vì bàn chân quá khổ. Chiều cao tôi bằng má, trong nhà tôi là người lùn nhất.
Mười Thanh- Kim Loan 1965
Hắn chỉ cao hơn tôi một tí, tướng lùn lắc choắc, khô đét như người ốm đói, ghiền sì ke. Trông như trái khổ qua đèo, nhìn lui giống như trái mít eo. Cho nên tôi đặt cho hắn biệt danh là " lùn mã tử ". Sự kính trọng trong tôi không có, mà sự khinh bỉ nảy sanh từ buổi sơ giao. Hắn mạng " Sơn Đầu Hoả ". Tôi mạng "Tuyền Trung Thuỷ ". Nước suối làm sao dập tắt được lửa trên núi, Nước với lửa không hạp nhau được, về cách sống và ý tưởng luôn chống đối nhau.
Trong người tôi triệu chứng biến đổi, kết quả giọt máu của hắn đã kết tụ trong tôi. Tôi không vui mà thất vọng, vì đứa con sẽ là mục tiêu để hắn kiềm giữ lấy mình. Tin tôi cấn thai không là tin mừng, mà ngược lại là những lời cay đắng, ghen tương, nghi tôi ngoại tình. Hắn đi tìm Lang kiếm chuyện. Lang chỉ biết nhịn nhục và im lặng. Chưa hả cơn tức, hắn quay sang tôi đay nghiến:
-Cô đâu có yêu thương gì tôi! Ở gần bên dễ ngoại tình quá mà! Có phải của tôi hông mà bắt thằng này nhận!Ai ăn ốc bắt tôi đổ vỏ!
Với người đắng chữ yêu thương
Xót xa giọt máu rơi vương tội tình
Bị người lừa dối rẻ khinh
Thương con phận bạc, thương mình long đong
Tôi bịt hai tai lại, để không nghe lời nói phủ phàng đó. Tôi ghê tởm con người " hai mặt ". Trong cơ thể ốm đói ấy, hình như có hai con người. Như một diễn viên thượng thặng, vai nào hắn cũng đóng xuất sắc cả. Khi có mặt má là hiện ra con người hào hoa, phong nhã, những câu săn đón với cử chỉ yêu thương giả tạo. Khi chỉ có mình tôi, hắn lộ ra chân tướng thật, không che đậy chút gì về bản thân là dân " xã hội đen ", thuộc loại nham hiểm, tiểu nhân hạ tiện, công nhận mình đã " có vợ " và hâm doạ sẽ bỏ rơi tôi.
Hắn thừa biết tôi còn trinh nguyên khi về với hắn, thế mà bây giờ tôi bị gán cho cái tôi "ngoại tình tưởng tượng "do hắn bịa đặt ra. Lại thêm lời đồn đải của láng giềng "tôi làm vợ bé ", do chị Sáu Hoa nghe được. Chị bị má khiển trách vì đổ " tiếng oan " cho hắn. Chị Sáu, người chị dâu má thương nhất ngày nào, giờ bị tụt hạng, xếp sau chàng "rể quý ". Tôi buồn vì má lợt lạc với chị, dầu rằng giữa tôi với chị không hạp nhau lắm. Nhưng tôi tôn trọng chị vì chị là người dâu đảm đang, đầy đủ bổn phận không trách vào đâu được. Nền tảng gia đình bị rạn nứt bởi chuyện bất hoà giữa dâu và rể.
Má không dám nhìn vào sự thật, bởi nó quá đau lòng, sợ lời biếm nhẻ rằng mình bị gạt, sẽ làm mất thể diện. Vì tự ái mà rầy oan cho dâu, vì chị dám nói ra sự thật. Trong khi chị và các anh, đầu tắt mặt tối, chắt chiu từng đồng đưa hết cho má, mà tiền vào lại nhảy sang túi của rể. Mà chàng rể " dỏm " thuộc loại " công tử bột ", lười biếng thuộc hạng " sư tổ ", chỉ thích ăn diện chảy chuốt bảnh bao, không làm mà rủng rỉnh có tiền bỏ túi nhậu nhẹt, cả chợ Bà Rịa đều biết mặt.
Vào mùa lúa, nhà thật bận rộn, mọi người bận túi bụi, chẳng bao giờ hắn phụ bưng một thúng lúa, chưa bao giờ xách được một gàu nước. Cả đến cây đinh cũng không biết đóng. Thấy hắn vô tích sự, tôi than phiền thì má lại bào chửa:
-Tụi bây nạnh hẹ nó mần chi! Tại nó là dân thị thiềng sung sướng quen rồi!
Được má bênh vực, hắn nở mũi lại càng chọc tức. Từ ngày bị trận đòn rồi bị " cấm cung " tôi chưa lần gặp Lang riêng . Tất cả những gì má ép buột, cả đến hiến thân cho kẻ mình thù ghét. Tôi đều làm, theo ý của má. Những mong gia đình Lang sẽ ở yên, thế mà cuối cùng Lang phải dọn đi trong lặng lẻ, không một lời từ biệt. Cũng vì hắn là rể của chủ đất, mà Lang là cái gai nhọn, hắn kiếm chuyện miết nên gia đình Lang phải dọn đi.
Vào mùa mưa, cái nền nhà của Lang cỏ mọc đầy. Cái mương con nước vẫn chảy miệt mài về phương trời nào? Chỉ mình tôi trên "đảo Cấm " không có lối thoát. Ngoài kia lá vẫn bay, mưa vẫn rơi, vũng nước in bóng hình tôi lẻ loi với đám mây bàng bạc lạnh lùng. Quanh tôi gió nghiệp chướng đang bủa vây, mà nghiệt oan đã dàn trải chờ tôi trên vòng xe ĐỊNH MỆNH.
Mấy tháng đầu má hối làm giấy hôn thú, thì hắn tránh né rồi hẹn lần, hẹn lựa. Khi má hối thúc quá thì hắn đòi khai sanh. Tôi đi lục thì bị thất lạc vì chiến tranh. Hắn vịn vào đấy là cái cớ vì không có khai sanh nên không làm được, chứ không phải do hắn. Má cũng biết cái giá trị của tờ hôn thú, nó bảo đảm quyền lợi cho tôi, và người muốn đánh tan dư luận về tin đồn tôi " làm bé ". Nhưng cái giá trị của nó không hơn tờ giấy lộn lưng, khi mà hai bên không thương nhau thật lòng. Hắn thừa biết tôi không có tiền để đi làm thế vì khai sanh nên càng đĩ miệng:
-Tại không có khai sanh nên con phải đành chịu! Chứ đâu phải tại con hỗng muốn làm! Con thương vợ con thiệt tình mà!
Thế là chuyện đâu lại vào đó, hắn ung dung về lại Sàigòn. cái tánh gian dối, lường gạt,anh em tôi đều biết rất rõ và chán ngấy, chỉ có má tin hắn thôi. Anh Tám Búp nói mĩa:
- Thằng họ Sở đã cao bay xa chạy! Thôi em đừng buồn! Anh đủ sức nuôi cháu mà!
Mà còn bênh vực:
-Tại nó lính tráng nên kẹt! Bây lúc nào cũng đa nghi như Tào Tháo! Tao hỗng có nhìn lầm đâu!
Tôi nhìn má thương hại bà mẹ quê chất phác. Chẳng bao giờ tin con cái, mà dễ tin người ngoài. Nhất là chàng "rể bịp " biết tâng bốc. Má từng tự hào là người từng trải đời, biết nhìn người, mà hình như có một làn tà khí đã che khuất mắt của người. Tôi muốn nói má " mù quáng " nhưng không dám nói. Cái nhìn nông cạn đó không thấu được cái " dã tâm của người hai mặt ". Thủ đoạn lừa bịp được nguỵ trang sau gương mặt đẹp trai đó. Bao quanh con người hắn, có một cái gì không ổn, mà tôi không sao giải thích được.
Anh Ba, anh Sáu Hoa, như đàn chim đủ lông, đủ cánh, lìa tổ lập tổ ấm riêng tư. Anh Tám Búp mãn khoá Cảnh Sát làm việc tại Long Điền. Nhà chỉ còn Mười Thanh, nên bao nhiêu việc nặng nhọc nó gánh vác hết. Út Bé bắt đầu đi học trường tư vì khai sanh bị thất lạc. Trong nhà thưa vắng người, chẳng ai dòm ngó nên dễ moi tiền của má hơn. Khi má tính xây lại nhà, hắn lãnh phần mua dùm vật liệu, rồi đồ đạc trong nhà cũng mua dùm, nhưng " tiền mất, tật mang " .
Tôi bị thai hành cho đến tháng thứ 6, chỉ nghe mùi cơm thôi cũng ói đến mật xanh, mật vàng. Chỉ ăn được me với bưởi cầm cự. Có đêm buồn nôn, chạy hỗng kịp tôi lỡ ói trên mình hắn, hắn càu nhàu cho rằng tôi " cố ý giả bệnh ". Từng cơn ho xé phổi nói không ra tiếng, nói chuyện phải viết ra giấy. Từng chén thuốc cứu khó ngửi đắng nghét mà đêm nào má cũng bắt tôi uống. Tôi ráng nuốt cái " vị đắng" của cuộc đời, cố dằn tủi hờn sợ ảnh hưởng đến cái bào thai, nhưng không tài nào giữ được thức ăn trong bụng.
Tôi ở đây mùa Đông chừng thiếu nắng
Bức tường cao nhốt kín chuyện thương, sầu
Từng chén thuốc khó trôi men vị đắng
Uống men đời, hay uống cả niềm đau!!!...
Như phần đông dân quê, từ lúc cấn thai cho đến lúc sanh, không bao giờ đi khám thai. dù tôi đau liên miên má cũng không cho tẩm bổ vì sợ thai lớn khó sanh. Thuốc thì dùng thuốc bắc hoặc thuốc nam. Phải cử kiêng đủ thứ như : kiêng cá có trứng, những con vật có chửa, kiêng rau muống vì thuộc loại rau " vô tâm thái ". Sanh con trí óc sẽ rỗng như ruột rau muống. Kiêng ngủ trưa, nên má bắt tôi xắt chuối cây để nấu cháo cho heo.
Chiều nay qua biển mồ côi
Chợt nghe tiếng khóc chào đời mà thương
Nỗi đau hiu hắt canh trường
Thấy mình bạc phước biết nương bến nào
Má làm "mụ vườn " nên để tôi sanh ở nhà. Má dừng phên che lại trong lò bánh tráng, làm ổ cho tôi. Tôi linh cảm rằng đứa bé sẽ là gái, nên mua vài bộ quần áo bé gái, và mua một mớ khăn, không mua bình sữa. Lúc chuyển bụng, quặn đau, tôi chỉ biết rên khẻ, nắm chặt thành cây mà cắn răng không dám khóc. Thân phận đàn bà một mình mồ côi qua biển, nếu như gặp người chồng tốt, yêu thương nhau thì là một hạnh phúc vô biên. Còn tôi lòng đau quặn thắt khi nghe tiếng khóc chào đời của con, thấy đời con thật hẩm hiu và bạc phước.
Chiều nay qua biển lệ sa
Thương con phận bạc thương ta tội tình
Chiều nay qua biển một mình
Nghe chừng trên sóng lời kinh ru buồn!
Con gái tôi chào đời vào một đêm mưa, lúc 7 giờ 10, tối ngày 19 tháng 6 năm 1962 (Nhâm Dần âm lịch) , nhằm ngày vía Quán Thế Âm. Nó nhỏ xíu, được 2 ký là cùng, trông như sanh thiếu tháng, phải để nó nằm trên gối thế nệm. Qua ánh đèn dầu mù u, tóc nó xoăn tít, gương mặt giống hắn như đúc. Bế nó trên tay mà nước mắt chan hoà, tình thương bỗng dâng lên vô bờ bến. Tôi vui mừng vì con sanh ra toàn vẹn, đẹp xinh. Nhưng... nỗi buồn lại kéo đến, khi nhìn cái mầm non vừa mọc lên là một sản phẩm của cuộc hôn nhân cưởng bức. Nó là sợi dây trói buộc tôi vào bổn phận thiêng liêng, thiên chức của người mẹ.
Kim Loan-1962
Bên chồng duy nhất chỉ có chị Hai Khương, người chị chồng cùng mẹ khác cha đến thăm. Đây là lần thứ hai tôi gặp chị, cũng là lần cuối cùng. Ngoài Hà vợ của Tư Xê, tôi không thân thiện với những người trong gia đình hắn. Chẳng bao giờ tôi đến nhà mẹ hắn cả đến ngày giỗ, vì tôi cho mình không là dâu của nhà họ " Đặng ". Cũng bởi tôi khinh bỉ hắn rồi không kính trọng gia đình hắn.
Khi tôi sanh được mấy ngày thì hắn về. Hắn vén mùng, không hỏi han tôi câu nào, chỉ chú tâm vào cái mầm sống bé nhỏ yếu ớt kia, với cặp mắt ghẻ lạnh không thân thiện mấy, hình như giữa hắn và đứa hài nhi chừng xa lạ. Hắn nhíu mày tỏ vẻ khó chịu, bỗng thốt lên:
-Sao tóc nó lại quăn như thế này? Trông nó giống Võ Hữu Lợi! Chắc nó không phải là con của tôi???
Tôi hy vọng khi nhìn thấy con, cái ám ảnh " ngoại tình " từ lâu hắn gán cho tôi sẽ tan biến đi, hắn sẽ ân hận đã nghi oan cho tôi. Tôi chỉ muốn con có một người cha, chỉ mong hắn có trách nhiệm và bổn phận. Nhưng... mấy ai học được chữ " ngờ ". Câu nói tàn nhẫn đó như mũi dao đâm vào tim, như xoáy vào óc tôi đau buốt. Như bị gáo nước lạnh tạt vào mặt, cả người tôi run rẩy như tàu lá chuối chao đảo trong cơn gió dữ. Cánh tay tôi rủ liệt, không đưa lên nổi để tát vào mặt tên sở khanh kia cho đã nư giận, cả người tôi lạnh dần, má hoảng sợ hét lên:
-Thằng quỷ đi....đi ra mau! Vác cái mặt ôn binh dìa đây! Còn ghen tầm ruồng bá láp! Bộ muốn giết nó hả? Má lại rủa tiếp:
-Muốn máu sản hậu chận nó chết hay sao? Thứ đồ xác nhân ác đức! Cái mặt giống in như đúc còn nói không phải con! Thôi dìa trển đi đừng ở đây mà báo đời nữa!
Nghe má nguyền rủa mà tôi nghe đắng ngắt trong lòng. Chính người đã chọn cho tôi con đường chông gai sõi đá này. Chính người đưa tôi vào cái " địa ngục " này.Hắn tàn nhẫn chụp lên đầu tôi cái mũ " phản bội " to tướng.
Chiều nay qua biển nghẹn ngào
Dao đâm đứt đoạn máu trào đỏ sông
Con đường mẹ chọn gai chông
Nhục nhằn cũng lắm long đong cũng nhiều!
Trên da thịt dù bị cào xướt đến rướm máu, dù chân què quặt tôi vẫn phải bước tới. Nhát chém ngày vu quy chưa lành, thế mà hắn lại bồi thêm một nhát chí tử nữa, khi tôi còn nằm trên giường sanh. Thấy tôi khóc má lại than:
-Hết dâu rồi tới rể !
Tôi uất nghẹn:
-Con người ảnh tàn nhẫn như vậy! Làm sao con sống với ảnh được!
-Tại nó say nên nói bậy! Chớ nó hỗng cố ý! Tại nó thương nên mới ghen!
Tôi gắt:
-Thương... thương cái kiểu gì kỳ cục vậy! Ghen hết anh Lang rồi tới anh Lợi! Má cứ bênh rể còn con khổ má đâu cần biết tới!
Má vẫn cố bào chửa:
-Chén, dĩa trong sóng còn khua! Tao thấy nó cưng vợ! Sắm từng cái áo, từng đôi giầy! Đờn ông đâu có ai làm chuyện đó!
Tôi cười chua chát :
-Má tưởng như vậy là thương hay sao! Ảnh chỉ lấy vải thưa mà che mắt thánh!
Thấy tôi khóc, má lại khuyên:
-Bây ráng ăn để có sữa cho con! Mới sanh khóc hoài hỗng có tốt!
Tôi chẳng trả lời má, ướt mắt nhìn ra cửa sổ . Tháng sáu trời mưa dầm dề , nước lé đé lên tới vườn chuối, những tàu lá già te tua phần phật theo cơn gió. Mưa không ngừng qua mấy bẹ lá non óng ả. Trong chuồng bò , đám gà con chim chíp chui vào cánh gà mẹ trú mưa, gà mẹ thì ướt sủng nước vẩn xoè cánh ra che chở cho đàn con, làm tôi liên tưởng đến hoàn cảnh của mình.
Phận tôi như hạt mưa sa
Hạt rơi trên lá hạt qua nhà người
Phận tôi như cánh bèo trôi
Ghé qua bến đục nên đời tối tăm
Nhìn con thơ vô tội, một mầm sống vừa lên đã thấy nhiều bất hạnh, mà tôi thì quá trẻ đâu biết gì là bổn phận làm mẹ. Trong túi thì rỗng, nghề nghiệp cũng không. Tương lai của con như đêm tối vây quanh, còn mình thì như cánh bèo trôi nổi sau mương, cứ miệt mài qua những ngõ ngách tối tăm. Trên đôi mắt sưng húp của tôi, những ánh mây ảm đạm vừa mới ghé qua.
Ru con mà đợi sao mai
Uống trăm chén đắng mà cay tủi hờn
Tiếng ru nhu tiếng nước buồn muôn thuở, mà lòng mẹ buồn sâu kính như lòng biển khơi. Siết chặt tấm thân bé nhỏ của con vào lòng như chuyền cho tôi một niềm tin để sống. Chợt nghĩ đến ngày sanh của con là ngày vía Quán Thế Âm. Tôi thầm cảm ơn một sự mầu nhiệm mà ơn trên đã ban bố cho tôi.
Ru con bằng giọt lệ tràn
Tiếng buồn muôn thuở qua hàng tre xanh
Ru con mẹ thức năm canh
Con chim lẻ bạn trên cành sầu đâu!
Như chiếc bóng mờ hiu quạnh, giữa đêm khuya vắng, tôi ru con với giọt lệ thầm, với tuổi xuân héo úa tàn tạ, mà trong tôi một nỗi buồn sâu kín, chán chường, tuyệt vọng. Người tôi càng còm cỏi, cái lưng còng xuống, bởi phải gánh lấy món nợ lỡ vay từ kiếp nào?
Mấy ngày qua, tôi nằm thiêm thiếp, nghe nỗi đau thấm dần vào tim óc.Tiếng khóc của con, cứ xoáy vào tim tôi đau buốt, như mũi dao cứa vào mạch sống. Bầu sữa bỗng căng nhức, nhưng không đau nhức bằng cái đau trong tim. Ngoài kia mưa cầm chỉnh đã hai ngày qua, mưa lào xào qua đám chuối, như khúc nhạc tẻ lạnh buồn không lời. Vườn mãn cầu ướt loi ngoi, gió thở dài lạnh buốt luôn qua khẻ ván, lò than dưới giường đỏ hồng nhưng vẫn không đủ ấm.
Tiếng chim rù rì ăn đêm ngoài chuồng bò như lời ai thều thào bên tai, mà ngọn đèn dầu leo lét chập chờn như những bóng ma quái đản đang nhảy múa. Chốc chốc làn xét lại loé lên như hâm doạ. Vừa chợp mắt, bỗng thấy một bàn tay to lớn , từ dưới giường thò lên chụp lấy mình, tôi sợ hãi thét lên. Tiếng thét quá lớn, má hoảng hốt chạy vào. Tôi ngồi dậy, mồ hôi ướt dầm cả áo, nét kinh hoàng chưa tan.
Ba đêm liên tục, cứ mỗi lần nhắm mắt thì cơn mộng giống y như thế lại hiện về. Má sợ mới bế cháu qua ngủ với bà. Đêm sau đem trả lại cho tôi thì cơn mộng lại tái diễn. Thấy không ổn nên má giữ cháu luôn, má ôm nó để trên bụng mà ngủ.
Khi cháu đầy tháng, qua sự giới thiệu của cô Hai, tiệm thuốc bắc Bá An Đường. Má với tôi bế nó xuống thầy " nước lạnh " miệt Long Hải. Thấy bảo số nó không nuôi được, năn nỉ mãi thầy mới nhận. Thầy có tiệm vàng ở Long Hải, cũng bởi con của thầy sanh ra không nuôi được, nên thầy lên núi học bùa nuôi con nít. Nhờ thế thầy nuôi được mấy đứa con sau này. Sau đó thầy làm phước nuôi con nít lối xóm.
Tiếng hay đồn xa, mà thầy chỉ dùng nước lạnh nên mới có biệt danh đó. Đến nhờ thầy, chỉ mua hoa quả và vải làm bùa.Cúng xong thầy bắt mang trái cây về. Và thầy cũng không nhận tiền của ai hết. Thầy lại có tài đoán số, nhưng ít coi cho ai. Thầy đoán cho bà Mười (bà ngoại của Nữ-Hoa-Hường), năm và tháng qua đời, thật đúng không sai.
Từ hôm xuống thầy về, nó không còn khóc đêm, và khi ngủ với tôi cái ác mộng không còn thấy nữa. Không phải chỉ cần thầy nuôi mà phải biết lúc nào nó cần thuốc. Con gái tôi sức khoẻ không được như những đứa trẻ khác, nó thuộc loại nắng hỗng ưa, mưa hỗng chịu. Cứ nay ốm mai đau, èo uột khó nuôi. Tôi tự trách mình và ân hận, vì suốt thời kỳ thai nghén, quá đau buồn tột độ, thêm đau bệnh liên miên, đã ảnh hưởng đến sức khoẻ của con.
Má nghe lời người ta bày vẻ, mới đem bỏ nó ngoài đường, rồi nhờ bà Mười ngoại của Nữ lượm dùm. Tôi để nó vào thúng, kèm theo bình sữa và ít quần áo. Lúc đó cháu Ánh vừa lên hai, cứ ôm chân tôi mếu máo khóc:
- Cô ơi ! Xin đừng bỏ em tội nghiệp!
Tôi đợi bà Mười đi gần tới mới bỏ cái thúng ngay đầu đường . Bà đi tới nhặt lấy cái thúng rồi reo lên mừng rở, như tình cờ nhặt được trẻ bị bỏ rơi. Mấy bà di cư trên xóm đạo núi Dinh cũng vừa đi tới, họ tưởng thật mới xin bà. Bà bảo bà nhặt được thì bà nuôi. Họ nhìn con gái tôi rồi nguyền rủa người mẹ nào lại quá nhẫn tâm đem bỏ đứa con xinh đẹp như vậy.
Nhà bà Mười trên xóm nhà anh Năm Lãnh, trước nhà có cây phù quân. Bà hay cắt, giác, lể cho lối xóm. Ngoài bác Bảy gái, cậu Tám Trùm, dì Chín. Bà sống với người con gái thứ Năm có tật chân. Lúc đó mợ Tám Trùm cũng vừa sanh sau tôi vài tuần, cũng con gái đặt tên là Hạc. Bà Mười bế nó về nhà, mãi đến chiều mới đem xuống, và làm giấy tờ hẳn hoi, nhờ má tôi trả tiền hàng tháng và đạt tên nó là " Huệ ".
Chẳng biết có phải nhờ thế không? mà từ hôm đó trở đi nó bớt bệnh. Một lần mà đi vắng, nó bỗng trợn ngược rồi nín thở. Nhớ lời thầy dặn, tôi đốt bùa hoà với nước lạnh, đổ được vài muổng thì nó hắt hơi thở lại. Những ngày rằm lại đi thay bùa, và đeo xâu chuổi làm bằng cây dâu.
Con gái tôi là cháu ngoại đầu, dù không có sự yêu thương của cha. Nhưng bù lại là sự yêu thương của ngoại, cậu và dì. Anh Tám đi làm về là chạy vào bế cháu trước, thấy chân nó cong, nên cứ bóp chân nó mãi , sợ lớn lên đi chữ bát. Ai cũng trêu là a nh muốn học làm cha.
Hai tháng sau, hắn về mang cái khai sanh ra khoe, càng gây tin tưởng nơi má. Trong khai sanh, hắn và tôi là cha mẹ, hắn tự ý đặt tên cho con là Đặng Thị Kim Loan. Xem tôi như cái hình nộm không hơn, không kém. Tôi tức nên nhắc lại:
-Anh bảo nó không phải là con của anh mà! Sao bây giờ lại đi làm khai sanh?
Với nụ cười nửa miệng, hắn nheo mắt:
- Nói chơi mà cũng tin!
Nhìn mặt hắn trơ trẻn chi lạ, trong con người đó chỉ chứa lòng ích kỷ, hẹp hòi đầy nghi kỵ. Hắn dả lả làm hoà, cái hơi nóng từ bàn tay hắn không nhóm cho tôi một đóm lửa ấm áp, mà tôi có cảm tưởng như một lò lửa của gã quỷ sứ muốn thiêu đốt lấy tôi. Câu nói tàn nhẫn hôm nào vẫn còn vẳng trong đầu, thế mà hắn vờ quên đi, tỉnh bơ như chưa có chuyện gì xảy ra. Thấy hắn vui, tôi mới đề cập đến tương lai của con, và tôi đặt câu hỏi:
- Tôi chỉ muốn biết, tại sao anh cứ hẹn! Nếu hỗng làm được hôn thú thì anh cứ nói thật! Sao anh gian dối để làm gì?
Câu hỏi chạm vào tự ái, hắn đang vui chợt xịu mặt:
-Tôi đâu có ngu dại mà làm hôn thú! Rủi tôi chết em lãnh tiền tử nuôi thằng khác có phải là uổng hông!
Tôi kể lại cho má nghe những gì hắn nói. Má gạt đi:
-Tại bây hỗng thương nó nên nói thêm! Có vợ sao còn về đây được!
Tôi phân bua:
-Chính ảnh nói với con ! Khi má hỏi thì ảnh chối! Con người hai mặt đểu không chịu được!
Má gay gắt:
-Hai đứa bây ráp vô là sanh giặc! Giống như người thù không bằng! Tại tao ép duyên nên bây làm tròng làm tréo muốn bỏ nó phải hông?
Cứ mỗi lần tôi tố hắn, thì má đem chuyện ép gả ra áp đảo, má luôn bênh vực hắn mà xử ép con gái, người thua cuộc vẫn là tôi. Mỗi ngày tôi dần xa cây cổ thụ kia, giữa tôi với má cái hố sâu càng sâu thêm, hằng đêm nỗi tủi nhục do má mang đến nó cứ lớn dần theo thời gian.
Kim Loan- 1963
Một tháng...hai tháng trôi qua mỗi ngày mỗi lớn nó giống hắn như khuôn, cũng cái vẽ đẹp Tây Phương. Mắt sâu hai mí với hàng mi vong vút, tóc quăn. Mỗi khi bế nó ra phố, ai cũng nghĩ tôi có chồng Tây. Lối xóm đặt tên nó là " búp bê ". Đến khi nó biết lật, hắn mang về được mấy bộ quần áo, bế nó ra tiệm Minh Cảnh chụp hình. Khi về mang về nào bình sữa, bình thuỷ, bảo là trúng số được.
Mỗi ngày một chút, hắn thay đổi tôi lúc nào chẳng biết, những món quà mang về ngài quần áo kiểu cọ tân thời, nào guốc cao gót, son phấn... những thứ má không thích nên tôi dấu đi. Tôi vốn gái miền Đông nửa quê, nửa chợ. Quanh năm chỉ quen với cái áo bà ba, một điều khác biệt là tôi không thích đeo vàng đỏ chói đầy người như dân quê.
Thân mẫu- Nguyễn văn Búp- Dị, Thanh ,Út 1963
Khi đó chính quyền bắt đi chụp hình làm tờ khai gia đình, tôi không được bế con. Lúc đó tôi còn rất quê mùa, là một cô thôn nữ hiền lành mộc mạc. Lúc con gái được 8 tháng, khi đã lấy được lòng tin của má, hắn xin phép má cho tôi về Sàigòn để cho biết bên chồng. Tình hình Sàigòn không được yên lắm, nhưng má cũng bằng lòng cho tôi đi. Riêng cá nhân tôi cũng muốn tìm hiểu về hắn nên càng hâm hở. Trước ngày đi, hắn dẫn tôi đi uốn tóc, chưa xin phép má nên tôi không dám, hắn đốc vào:
-Má rầy anh chịu cho!Đi về Sàigòn mà quê trết quê trân người ta cười cho! Anh muốn làm đẹp cho em mà!
Nghe hắn nói càng bùi tai, vã lại người con gái nào mà chẳng thích làm đẹp, hắn đã đánh trúng tâm lý của tôi. Hắn chọn kiểu bảo thợ uốn. Từng nhác kéo, từng mảnh tóc rơi xuống như đời mình rồi cũng tả tơi như mái tóc kia. Nhìn vào gương tôi không còn nhìn ra mình nữa. Tôi đã đánh mất cái mộc mạc, diệu hiền của người thôn nữ.
Qua giòng sông thân ái
Đánh mất cả quảng đời
Củao một thời thơ ấu
Tôi bước vào nổi trôi....
Từ trong kén con tằm vừa lột xác
Ô môi buồn ngơ ngác ngó theo tôi
Khoác áo hoa tôi thành người phố thị
Nắng ngỡ ngàng nên chiều bỗng xa xôi ...
Người con gái quê, với mái tóc đuôi gà ngày nào đã biến dạng, được thay thế bằng mái tóc uốn ngắn. Chiếc áo bà ba quê mùa được thay thế bằng bộ trang phục kiểu cọ hoa hoè. Đôi guốc cao gót thay thế đôi guốc vông. Từ trong kén con tằm vừa lột xác! Tôi khoác chiếc áo hoa thành người phố thị.
Một chút bùi ngùi, một chút hổ thẹn dâng lên. Trong khi đó hắn say mê chiêm ngưỡng, dường như hài lòng với cái " tác phẩm " mà hắn mới sáng tác ra. Hắn đã thành công trong việc thành thị hoá cô gái quê. Sông Dinh ngỡ ngàng nhìn tôi như nhìn cô gái tân thời xa lạ nào. Giòng sông Dinh vẫn lặng lẽ mang dơ bẩn về cho biển cả, nhưng muôn năm nước vẫn đục quanh mùa. Tôi như con cá trên sông Hàng theo nước nguồn trôi xuống. Cá không chết đuối dưới ánh trăng, mà cá sẽ chết đuối trong vùng nước mặn kia.
Qua giòng sông thân ái
Nước lờ lợ xuôi dòng
Đem dơ về biển cả
Cho sông đở bận lòng
Má nhìn thấy tôi thảng thốt kêu lên:
-Trời đất, quỷ thần, thiên địa ơi! Cái đầu như đống rơm! Hôi rình như nước đái quỷ! Đẹp đẻ gì mà đem tiền cho thiên hạ ăn! Muốn uốn tao lấy đủa sắt tao nướng trong lò tao uốn cho!
Hắn cười khì vuốt ve:
-Tại má nhìn hỗng quen! Chớ con gái Sàigòn ai cũng uốn như vậy hết! Má hỗng chịu thì mai mốt con sửa lại!
Nghe hắn bom ngọt, má rầy sơ rồi bỏ qua. Tôi cảm thấy hối hận đã nghe lời hắn làm mà buồn. Bước ra vườn sau, cây ô môi nhìn tôi ngỡ ngàng trách móc, còn vạt nắng cũng hờn nên cúi mặt quay đi. Cây cau, vườn trầu cũng buồn thiu vì tôi đã sớm quên mùi hoa cau, hoa bưởi.
Em đi em bỏ vườn cau
Bỏ hàng bông giấy xanh xao tre gầy
Em đi nghe tủi tháng ngày
Thành đô muôn mặt tình đầy dối gian !
Tôi đến chào má để đi, người nhìn tôi từ đầu đến chân rồi trách móc:
-Tao hết nói nỗi bây rồi! Đầu thì chơm bơm như đống rơm! Ăn mặt dị hợm, bông huê như con cắc kè bông! Bắt chước dân thị thiềng, ngó hỗng giống con giáp nào! Thiệt là chướng con mắt!
Biết sự thay đổi đột ngột của mình làm má buồn. Tôi biết lỗi nên im lặng. Ngày bước chân về xứ lạ, thay vì lời khuyên bảo để bước ra trường đời. Tôi chỉ nhận lời trách móc làm hành trang cho chuyến về Sàigòn lần đầu tiên. Tôi bùi ngùi từ giã ruộng vườn, bỏ quên lại quê nghèo chiếc áo bà ba hôm sớm quạnh hiu.
Em đi em bỏ vườn cà
Bỏ quên chiếc áo bà ba hôm nào
Ra chào từ giã vườn sau, hoa cau mầu ngà rụng lều bều trên mấy ảng nước, cũng chao chao lời giã biệt. Bên nương cây ô môi buồn thiu vì sắp xa người tri kỷ. Gió đồng nội dạt dào thương yêu như quyến luyến phút chia tay.
Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao
Tư Lệnh Quân Đoàn 3
Năm 1963 (Quý Mảo) Ấp Bắc thuộc một làng nhỏ miệt Kiến Tường, cách Sài Gòn 65 cây số về phía Tây Nam, cách Mỹ Tho 27 cây số về phía Tây Bắc. Trận chiến đụng độ mạnh vào ngày 2-1-1963. Quân Đoàn 3 được thành lập ngày 11-1-1963. Tổng Thống Ngô Đình Diệm bổ nhiệm Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao chức Tư Lệnh Quân Đoàn 3.
Đầu năm 1963 cuộc chiến gia tăng khắp nơi, thì Sàigòn cũng bành trướng thêm hai tổ chức văn nghệ đại quy mô. Đó là đoàn văn nghệ của Đoàn Trọng Miên, trụ sở trên lầu 4 trong một cao ốc đường Nguyễn Huệ. Tầng dưới là toà soạn của báo Lẻ Sống. Đoàn văn nghệ dân tộc của Hoàng Thi Thơ, với vũ trường Maxim lộng lẫy, nơi thù tiếp những quan khách cao cấp đi có an ninh phòng vệ.
Sàigòn trời tháng 3, sinh hoạt trên đường phố căng thẳng, khó thở. Tôi choáng mắt ngỡ ngàng, bởi hình ảnh tương phản của những xóm nghèo dựa bên những toà là lầu cao sang trọng. Sàigòn đang tập tành đời sống trưởng giả nên thành ra lố lăng. Cũng như tôi đang tập tành làm cô gái Sàigòn nên đâm ra quê kệch. Đường phố ô nhiễm bởi khói xe, mà người thì như đàn kiến chạy tìm mồi hối hả. Cô gái quê bở ngỡ bị cuốn hút vào cơn sốt của Sàigòn hoa lệ.
Xuống bến xe, hắn kêu taxi về bên kia cầu chữ Y, xe ngừng trước ngôi biệt thự ngay cửa sau lò heo Chánh Hưng. Đẩy cánh cửa song ly sắt bước vào sân. Hắn đẩy tôi đến trước một người đàn bà trung niên hơi phốp pháp, đẹp người có vẻ phúc hậu. Hắn giới thiệu:
-Cô Hai! Đây là vợ của con!
Cô ngạc nhiên trố mắt nhìn tôi, quay sang hắn hỏi lại:
-Hả! Mầy nói gì?
Hắn giải thích:
- Tại cô nói con nói láo! Nên đem vợ con lên cho cô biết mặt!
Cô Hai nói thẳng:
-Mày là vua xạo! Bà con ai cũng chạy mặt! Con lớn như vầy mà dấu khéo dữ ha! Vợ thứ mấy đây?
Thì ra hắn dấu gia đình vì đã có vợ rồi. Cổ tôi bỗng nghẹn, sự thật nào cũng đau! Tôi thắc mắc, tại sao hắn không đưa tôi về bên bác, cha mẹ nuôi, mà lại đưa tôi về bên cô Hai? Được gia đình cô Hai đón tiếp niềm nở nên tôi cũng đở tủi thân. Cô dành cho tôi một phòng trong biệt thự, có cửa đi riêng phía sau.
Tôi được biết chồng cô Hai Tùng thuộc hàng cấp cao trong Bình Xuyên, khi Bảy Viễn trốn thoát, quân Bình Xuyên tan rả, thì chồng cô cũng trốn đi biệt tích luôn, cô không biết ông còn hay đã chết? Một thời cô làm bà bầu lập gánh hát cải lương. Tôi không nhớ cô có mấy đứa con. Chỉ nhớ đứa con gái đầu tên Vạn, đứa kế tên Thơ. Và hai người cô độc thân nữa, ở chung trong biệt thự và làm ở hảng may quân trang.
Biệt thự của cô Hai, cách cửa sau lò heo Chánh Hưng khoảng vài chục thước. Vây quanh cửa sau lò heo là quán cơm, hủ tiếu, mì và đủ loạ quà vặt. Phía sau biệt thự là một dãy phòng, cho những người lái buôn thuê, lúc nào cũng đầy khách ở trọ. Từ phòng tôi bước ra là cuối hành lang, nhà bếp phía bên trái. Tôi treo cái võng ngoài hành lang kế phòng mình.
Hắn đem tôi về bỏ đó, như bán cái lại cho cô Hai. Tôi phụ cơm nước và ăn chung với gia đình cô. Còn hắn thì luôn tuồng không ăn cơm nhà, quần áo thì bỏ tiệm giặt ủi, thích nhậu nhưng không hút thuốc. Tôi không biết hắn trong binh chủng nào? Chỉ biết hắn là tài xế cho mấy ông cố vấn Mỹ, nên thường đem xe jeep về nhà.
Bao quanh biệt thự là bốn bức tường cao, ngăn cách với lối xóm. Từng đêm tôi chán nản đợi chờ, thu hẹp trong thế giới nhỏ hẹp đó. Ngày đi đêm tới mà đã hai tháng qua, bụng tôi đau ngâm ngâm. Tưởng chỉ đau xoàng thôi, không ngờ mỗi ngày càng đau nhiều. Tôi xin tiền mua thuốc thì hắn bảo tôi đau "giả vờ ". Đến khi thấy tôi không còn chịu đựng cơn đau, thì hắn mới đi mua " thí " cho một lố trụ sinh.
Ngày đi... tháng lại... tôi như tia nắng cuối ngày dần chết trên hàng hoa giấy. Tiếng gió rít như tiếng ma quái, lồng trong tiếng gào thét của những con vật đang quằn quại dẫy chết, mà hằng đêm rờn rợn vọng về từ bên lò heo Chánh Hưng.
Giữa khuya tiếng rú đau thương
Bóng ma lảng vảng canh trường ngẩn ngơ
Giữa đêm khuya, tiếng bò rống thảm thương, tiếng con heo bị thọc tiết kêu eng éc vang lên từng hồi thật rùng rợn. Tôi lại so sánh giữa mình và những con vật khốn khổ kia nào khác chi đâu! Từng đêm tôi ru con đợi chờ, lời ru như lời thở than cho số kiếp, với nỗi lòng đau u uất triền miên. Lời ru buồn hiu hắt bay ra khỏi bờ tường cao của biệt thự, thoảng đưa qua bên kia hàng xóm.
Mặc cho đời mẹ long đong
À ơi... con ngủ cho lòng mẹ vui
Ru con bằng những ngậm ngùi
Buồn hiu uất nghẹn như lời thở than!
Bịch... tiếng đá chạm vào bờ tường làm tôi giựt mình, nhìn quanh dãy hành lang vắng ngắt khiến tôi bỗng rợn người, nhìn quanh không thấy ai, nghĩ đứa trẻ nào nghịch ngợm nên tôi bỏ qua. Tôi lại ru tiếp, viên đá thứ nhì rớt gần cái võng gây sự chú ý của tôi, nhặt lên thì thấy viên đá được buột kèm mảnh giấy ràng bằng dây thung, tôi tò mò mở ra xem.
Thì ra lá thư làm quen của người sinh viên láng giềng. Tôi men lại bờ tường, đứng lên băng ghế đá nhìn ra ngoài nhưng không thấy ai. Chỉ nghe tiếng gió rít lướt qua hàng rào hoa giấy. Tôi đọc lại lần nữa rồi vò miếng giấy vất vào thùng rác. Đêm sau, cũng vào giờ đó lại tái diễn, lời lẻ cũng giống như lá thư trước, rồi lá thư thứ ba, số phận mấy lá thư đó cũng hẫm hiu như mấy lá thư trước. Kể ra thì anh chành sinh viên nọ thật là kiên nhẫn.
Tôi thừa biết tánh ghen độc đáo của hắn nên đâm sợ. Mới bạo gan viết vài hàng hồi âm thật ngắn, ý bảo " hoa đã có chủ " . Xin đừng mơ ước uổng công, Tôi bắt chước lấy viên đá buộc vào mảnh giấy, leo lên ghế đá liệng qua ngoài bờ tường.
Xin người đừng ước, đừng mơ
Hoa kia có chủ đừng chờ uổng công
Đời anh nghiên bút chưa xong
Xin đừng vương vấn tơ lòng mà chi!
Lá thư hồi âm của tôi không làm người sinh viên kia thất vọng, mà lại càng ngoan cố hơn. Đêm nào cũng liệng thư sang. Qua những lá thư, anh cho biết anh đang ở trọ và đang học đại học năm thứ 3. Tôi không dám đùa dai với lửa, nhưng không có cách nào cấm kẻ si tình. Nên tôi nhận lời, một cuộc hẹn hò. Tôi chỉ muốn bày tỏ sự thật cho người sinh viên đó biết hoàn cảnh của mình, và xin anh đừng theo đuổi nữa.
Chờ cho con gái ngủ, tôi nhờ Vạn trông dùm, thả bộ ra chỗ hẹn. Dõi mắt nhìn qua bên kia sông, mặt nước lấp lánh ánh đèn. Tôi suy nghĩ tìm lời lẻ nào để từ chối mà không chạm vào tự ái của chàng sinh viên kia. Thật tình mà nói thì tôi cũng chưa biết mặt mũi chàng ta ra sao nữa? Chợt giựt mình khi một bàn tay thật ấm đặt lên vai tôi. Dưới ánh đèn nửa tối, nửa sáng, lần đầu tiên tôi diện kiến tác giả của những bức thư rơi.
Gương mặt anh bô trai, sóng mũi cao, gương mặt chữ điền, mái tóc hao hao giống tài tử Deen Martin, dáng thư sinh cao ráo. Trông anh còn rất trẻ , với nụ cười thật tươi, anh tự giới thiệu là tác giả của những bức thư rơi đó. Anh hỏi tôi là gì của chủ nhân ngôi biệt thự? Và em " bé lai " tôi vẫn thường ru ngủ là gì của tôi? Thì ra anh ngộ nhận tôi là người giúp việc. Tôi thấy mình nên cho anh biết sự thật.
-Dạ thưa anh! Đứa bé lai ấy là con của em! Và chủ ngôi biệt thự đó là cô chồng!
-Anh thấy em còn nhỏ xíu mà! Sợ anh theo đuổi nên dối phải không? Đêm nào anh cũng thấy em có một mình!
- Tại chồng em đi chơi khuya!
Anh nhìn tôi ngờ vực thốt lên:
-Có vợ như thế này mà bỏ đi chơi đêm à?
Lúc đó tôi chưa tới 20, cái câu "gái một con, trông mòn con mắt " thật không ngoa. Tôi cũng có chút nhan sắc, dù tôi không trang điểm,nhưng với thân hình phát triển đầy đặn của gái một con. Nét khêu gợi như thỏi nam châm, đã thôi miên cuốn hút những cánh bướm đa tình. Tôi chợt thấy trong mắt anh một thoáng đam mê. Anh " thú nhận " đã hơn tháng qua, đêm nào anh cũng lén " nhìn trộm ", để nghe tôi hát ru em. Giọng ru trầm ấm, ngọt ngào, nhưng câu ru đã buồn, mà tiếng ru như chứa cả trời u uẩn. Làm anh cứ tư tưởng học bài chẳng được. Tôi khuyên anh rằng:
Hỡi người bạch diện thư sinh
Xin đừng nói chuyện ân tình người ơi
Thuyền kia đã có bến rồi
Tại anh đến trễ nên đời cô liêu!
Nếu nói tim mình không rung động thì tôi tự dối lòng, nhưng nếu nói yêu thì cũng không đúng. Tôi luôn bị má chê đè, còn hắn thì bảo " chẳng ma nào thèm" và cho rằng khi đã qua tay hắn rồi thì kể như " phế thải ". Khi được người theo đuổi, tôi cảm thấy tự ái được vuốt ve, nên tôi có cảm tình với chàng sinh viên kia cũng không là điều lạ.
Tôi chỉ đến chỗ hẹn một lần rồi thôi, lời cự tuyệt làm chàng sinh viên kia đeo đuổi thêm. Hình như đó là bệnh chung của đàn ông. Họ không thích người con gái quá dễ dàng, mà sẳn sàng chạy theo một chiếc bóng. Hắn thì đi sớm, về khuya, càng làm cho chàng sinh viên kia, cho là tôi "nói dối ".
Chẳng hiểu hắn nghe ai nói, nên ghen lồng lộng, sách súng hùng hổ qua nhà chàng sinh viên kia hâm doạ. Làm rùm beng lên cho tôi xấu hổ. Nếu đất mà có kẻ hở , tôi đã chun xuống cho bớt xấu hổ. Sau vụ ghen tương đó, tôi không được bước chân ra khỏi biệt thự, nếu không có hắn đi theo. Kể từ hôm đó, hắn ít vắng nhà hơn và săn sóc và quan tâm tới tôi nhiều hơn. Và chẳng bao giờ tôi gặp lại chàng sinh viên ấy.
Hận kia trả lại kẻ thù
Trả đời nô lệ làm mù đời ta
Xác này trả lại mẹ cha
Chỉ đôi giây nữa làm ma lạc loài
Sau vụ ghen tương làm ầm ỉ cả xóm, hơn tuần qua tôi bị giam lỏng trong biệt thự. Từng đêm, nghe tiếng heo bị thọc tiết kêu thảm thiết, mà tưởng tượng một ngày nào đó mình sẽ như con vật kia. Một ý nghĩ " thoát ly " chợt loé lên. Cái nguyên nhân là hôm qua, hắn đưa tôi với con đi dạo phố Sàigòn, bởi không cấm được người ta nhìn, hắn lấy cớ đó mà buột tội:
-Phải nhốt cô trong nhà mới được! Ra đường mắt cứ liếc trai không hà!
Thật là vô lý khi cái lý do buộc tội tôi không vững, làm sao tôi có thể cấm người ta nhìn mình. Chúng tôi cãi nhau từ lúc trên phố cho đến khi về. Trong đầu óc " bệnh hoạn " của hắn lúc nào cũng nghi tôi " ngoại tình " và luôn lo sợ tôi " phản bội ". Hắn sống trong bất an và đa nghi hơn cả Tào Tháo. "thà giết lầm hơn là tha lầm ".
Lời thề hôm ngày cưới đã nằm im, bỗng nhiên hắn hâm nóng lại, cái " mối hận " ngày xưa bỗng trở mình thức giấc. Hắn sẽ ăn chẳng ngon, ngủ chẳng yên, sẽ điêu đứng vì tôi bắt đầu phản kháng. Hắn sẽ thất vọng tôi không là dâu thảo, vợ hiền như hắn mong ước. Tôi không dễ dàng cho hắn xỏ mũi khuất phục. Một ngày hắn giữ tôi là giữ một " mối hoạ ".
Bỗng dưng mối hận ngày xưa
Người khơi lại chuyện lọc lừa dối gian
Nhục nhằn, hận tủi tôi mang
Bên rừng hiu quạnh dây oan rối bời
Hắn xách xe bỏ đi, tôi ru con ngủ bằng lời ru nghẹn ngào, với lời thở than cho số phận. Tôi như con chim trong lồng đang tìm cách thoát ly, nhưng... đi về đâu? Khi mà không đồng xu dính túi, ai mà dám chứa chấp tôi khi tôi chẳng có miếng giấy lộn lưng.
Đang suy nghĩ miên man, thì một người lái buôn trung niên bước lại hỏi thăm, vì mấy hôm nay ông nghe chúng tôi gây nhau lớn tiếng. Nhất là hắn quá " độc tài " lại ghen vô cớ. Thấy tôi bị làm nhục nên ông động lòng trắc ẩn muốn giúp tôi.
Đang lúc buồn chán nản, lại có người đến hỏi thăm, tôi lại tuôn ra không dấu diếm. Tôi đính chánh với ông rằng " tôi là nạn nhân trong một cuộc ép duyên" . Hắn có vợ ở đâu đó tôi không biết, với tôi, hắn chỉ là người " chồng hờ " không hôn thú. Hắn đem tôi về bên cô chồng, tôi không than phiền vì họ đối đải tôi rất tốt. Nhưng... tương lai của tôi với con không có, và tôi bị giam hảm như một người " nô lệ ". Tôi muốn " trốn đi " , nhưng không có quen ai, và cũng không có tiền .
Khi nghe tâm sự của tôi, ông đăm chiêu suy nghĩ. Ông bảo tôi đợi vài ngày, để ông bán xong kiện hàng, ông sẽ giúp đỡ tôi chỗ ở và tài chánh. Không chút đắn đo, tôi chấp nhận ngay.Tôi nghĩ đi đâu cũng được, miễn là tôi thoát khỏi tay của hắn mà thôi. Trong khi đó tôi không biết người đàn ông kia như thế nào? Tôi không có thì giờ suy nghĩ cái hậu quả việc làm điên rồ của mình.
Hai hôm sau, người lái buôn trả phòng đi trước, để không ai nghi ngờ. Trước khi đi, ông lén cho tôi một số tiền. Tôi gặp ông chỉ 2 lần, mà lần nào cũng vội vàng nên chưa hỏi tên ông.
Thêm một đêm lo âu đi qua, khi vầng trăng khuyết còn mờ mờ, mà ánh nắng đầu ngày vừa le lói. Nắng nhảy múa trên khung cửa như giục giã lòng người sắp ra đi. Khi nghe tiếng xe jeep của hắn xa dần, tôi vội vàng thu góp hành trang. Một tay bế con, một tay xách va li, tôi lẻn ra biệt thự không ai thấy. Đi bộ một khoảng khá xa mới đón được taxi. Vừa lên xe thì hắn lái xe về, hình như quên cái gì đó? Tôi hối người tài xế, nhưng không còn kịp nữa, mắt hắn thật tinh đã trông tôi nên lái xe rượt theo.
Cảnh đuổi bắt sôi nổi như trên màn bạc. Xe jeep đuổi theo xe taxi, hắn chận đầu uy hiếp bằng súng, hắn liều mạng làm bác tài hoảng sợ mới ngừng xe lại. Tay hắn túm lấy tóc tôi lôi xềnh xệch xuống xe, dí mủi súng sau lưng lạnh ngắt, bắt cóc tôi với con lên xe jeep rồ máy. Chiếc xe rú ga như con hổ giận dữ lao nhanh tốc bụi, bỏ lại bác tài xế với đám người hiếu kỳ nhìn theo. Về lại nhà cô Hai, việc đầu tiên là tịch thu căn cước, tiền bạc rồi nhốt tôi vào phòng. Trước khi bước ra cửa, hắn quay lại hâm doạ:
-Tội hôm trước chưa xử! Bữa nay lại gây thêm! Cô trốn đi với ai? Thằng khốn kiếp nào chắc muốn tới số! Tôi đi kiếm nó thanh toán! Tối nay về tôi xử tội cô sau!
Chuyện xảy ra quá chớp nhoáng, làm tôi chưa kịp hoàn hồn. Nhìn hắn trong cơn giận, đôi mắt quắc lên toé lửa, cái mặt xanh mét. Bước ra đóng sập cái cửa một cái rầm!
Tôi lạc lỏng giữa thành đô, chẳng họ hàng thân thuộc, không giấy tờ, không còn đồng xu dính túi. Nghĩ đến sự trừng phạt của má, của hắn. Cái cảm tưởng hắn là con " đĩa đói " đang bám theo để hút máu của mình, làm tôi lạnh cả người. Người ta thường bảo, đường đời có muôn ngàn lối đi, mà sao tôi tìm mãi chẳng có lối nào để bước. Nhìn lối nào cũng tối tăm mù mịt. Hy vọng thoát ly rụi tàn, bị dồn đến ngõ cụt nên quẩn trí. Tôi thật sự hết chịu đựng nổi, cố tìm giải pháp tốt nhất để giải quyết bế tắc cuộc đời. Chợt nhìn thấy cái võng, một ý nghĩ chợt loé lên, liều thuốc giải tốt nhất là " cái chết ".
Chẳng thư tuyệt mạng cho người
Trối trăn chi nữa chỉ lời khóc thương
Nhìn quanh vôi trắng trên tường
Nén lòng mà lệ cứ tuôn ngậm ngùi
Trong lồng chim nhỏ tả tơi
Chán đời nô lệ chết rồi ước mơ
Tôi gục đầu thật lâu ngụp lặn trong khổ đau, uất hận. Ngước nhìn lên song cửa sổ, tôi tưởng tượng là chấn song tù. Thấy đời mình không đáng sống nữa. Tôi chết đi má sẽ hiểu nguyên nhân do đâu, nên tôi chẳng cần viết thư tuyệt mạng làm gì. Bức tường biệt thự tối mờ mờ , trong màn đêm thấp thoáng bóng thần chết như vẫy tay mời gọi. Tôi đứng dậy thật nhanh, mở dây võng ra, thắt chặt nút một đầu dây, rồi buột làm cái nút thòng lọng. Tôi ngậm ngùi nhớ cách học thắt nút trong đoàn hướng đạo sinh, không ngờ tôi đem ra áp dụng cho bài toán giải cuộc đời mình.
Run run tay thắt chiếc vòng
Sợi dây oan nghiệt đã tròng cổ em
Luyến lưu chỉ khổ đau thêm
Hoa đồng cỏ nội bùn đen lấm rồi
Cái cửa sổ thì quá thấp, mà trần nhà thì bằng phẳng, chợt thấy một cái móc khá to. Tôi bắt ghế đứng lên buột đầu dây vào cái móc đó. Ánh đèn từ cửa sổ chiếu cái bóng tôi với cái thòng lọng trên vách tường, làm căn phòng thêm quái đảng và rùng rợn.
Nhìn con đang ngủ say, một sự xúc động làm tôi muốn quỵ xuống, lời của kẻ sắp lìa đời nó ai oán bi thương. Đưa tay vuốt tóc con, đặt lên má con một cái hôn giả biệt, mà nước mắt đã tuôn chảy tự bao giờ. Chẳng phải tôi luyến tiếc cuộc đời khổ luỵ này, mà nghĩ thương con còn bé bỏng sắp mồ côi mẹ.
Tôi đã đứng thật gần bên thần chết
Nghe lưng trời sóng dậy biển vô minh
Ta nhắm mắt tưởng như đời đã hết
Buông tay rồi mặc nhân thế điêu linh!
Nhìn con, tôi chần chừ mà lòng không nỡ, khi đúc đầu vào thòng lọng, chợt bao nhiêu hình ảnh cuả người thân thoáng qua, làm tôi lưởng lự đôi giây. Tôi chỉ cần rướn người lên, đạp cái ghế ngả xuống là tự kết liễu cuộc đời mình. Cái chết của tôi người đời sẽ mai mỉa, buộc tội người đàn bà ngoại tình. Có ai hiểu được cái uẩn khúc bên trong, cái nỗi nhục nhằn của đời " nô lệ ".
Một mai ta có qua đời
Xin dòng dư lệ chút lời tiếc thương
Muôn thu nhắm mắt không buồn
Ta theo cát bụi bên đường lãng du...
Tôi gọi cậu trong đau thương, trong hận tủi ngút ngàn: - Cậu ơi! Đứa con gái lì lợm của cậu ngày nào! Đã không chống nỗi bão táp của cuộc đời! Con đang tìm đến cái chết! Xin cậu hãy đón con! Xin trả lại má xác thân vay mượn này! Xin trả lại đời những giọt nước mắt đau thương! Xin trả lại kẻ thù những nhục nhằn hận oán! Tôi sẽ không mang nó theo xuống tận đáy mồ!
Phút giây cuối cùng là hình ảnh của đứa con yêu quý bạc phần. Khi hình ảnh má và hắn thoáng qua, là bao nhiêu hận tủi khiến tôi mạnh dạn hơn để đi tìm cái chết! Tôi nấc lên vĩnh biệt cuộc đời, chân đạp cái ghế ngả xuống. Thấy cổ mình giật mạnh, đầu nóng ran như lửa rồi tôi ngất đi. Mơ hồ thấy một vùng ánh sáng loé lên và thân hình bỗng nhẹ tênh.
Thấy mình bỗng nhẹ lâng lâng
Em buông tay xuống lìa thân xác này
Bỗng nghe tiếng gọi bên tai
Tỉnh ra mới biết sợi dây mở rồi !
Chẳng biết tôi ngất đi bao lâu? Bỗng nghe tiếng gọi bên tai và tiếng người ồn ào:
-Em... em tỉnh lại đi! Trời ơi! Sao em lại dại dột thế này?
Khi tôi mở mắt ra, hình ảnh đầu tiên là gương mặt kẻ mình thù hận. Tôi uất ức, nước mắt nghẹn ngào lăn dài trên má. Tôi cảm thấy khó thở, mùi dầu nóng xông lên mũi cay xè. Cô Hai cùng mọi người vây quanh thật đông. Kẻ nắn tay, người xoa chân, có người lấy dầu nóng tẩm bông gòn xoa quanh cổ tôi. Còn hắn thì nâng đầu tôi lên đổ nước. Cái thòng lọng đã được gở xuống đem đi. Khi thấy tôi tỉnh lại, đám người hiếu kỳ giải tán, họ bàn tán xôn xao.
Trong một phút ích kỷ , không muốn kéo dài cuộc sống không Tình Yêu, không hạnh phúc. Tôi muốn " quịt nợ " bằng cách tự tử. Nhưng... hình như sợi dây oan nghiệt càng cột tôi vào với hắn chặt thêm. Làm sao tôi có thể nhẫn nhục mà chịu đựng, để trả cho hết
" món nợ tiền kiếp ".
Biết mình còn thiếu nợ đời
Oan khiên chưa trả nên trời khiến xui
Trong lồng chim nhỏ gượng vui
Trổi lên khúc hát chao ôi! Não lòng...
Đặt tay lên trán tôi, hắn chép miệng than:
-Tôi làm gì mà em thù ghét đến đổi phải tự tử! Bộ em không thương con sao?
Tôi quay mặt vào vách không trả lời, nuốt cơn nghẹn xuống. Đêm đó hắn không dám ngủ vì không ngờ tôi dám liều mạng, hắn có vẻ sợ nên không dám hài tội tôi. Sau này tôi nghe vài người kể lại. Biệt thự của cô Hai ngày trước Bình Xuyên dùng làm nơi tra kháo tội nhân, đã có vài người chết oan?.
Sáng hôm sau, cổ tôi sưng lên, dấy dây xiết hiện lên đỏ bầm, mà đầu thì nhức nửa bên như bị kim châm. Khi cổ tôi đã bớt sưng, chỉ ăn cháo chưa nuốt được cơm. Hắn chở tôi đến thầy cúng " ma thần vòng ". Khi bước đến bàn thơ khói hương nghi ngút. Tôi hơi sợ. Hắn cắm hương, và lâm râm khấn vái. Bắt tôi đọc theo lời thề độc như sau:
( Tôi tên là... xin thề suốt đời không phản bột chồng! Nếu thay lòng đổi dạ thì tôi sẽ chết một cách thảm thiết! )
Vì sợ hắn nên tôi lập theo như cái máy, nhưng trong lòng tự bảo:
( Mình bị áp bức mà thề !Thần linh sẽ không chứng vì mình chẳng thành tâm! Và hắn cũng đâu phải là chồng! )
Hắn càng tin hơn vì nghĩ rằng, khi bắt tôi thề độc, tôi sẽ sợ mà không dám bỏ hắn. Đến tuần sau, đầu tôi vẫn nhức, mà mắt thì máu đọng nên đỏ như tôm luột. Nhỏ bao nhiêu thuốc vẫn trơ trơ , chẳng còn cách nào hắn mới đem hai mẹ con tôi về lại Bà Rịa.
Bước qua ngưỡng cửa, tôi biết sự " trừng phạt " của má với hắn đang chờ đợi mình . Tôi lo sợ cuộc " hành hình " sắp tới sẽ rất khốc liệt. Mới vừa bỏ đồ đạc xuống, con gái chưa kịp mừng bà ngoại. Hắn hài tội:
-Con của má hư đốn! Hở một chút là trốn theo trai! Hết thằng này thì tới thằng khác! Con làm nư tự tử! Muốn đổ tội vạ lên đầu tôi!
Nghe qua, má xấu hổ vì đứa con gái hư đốn. Má mắng không tiếc lời:
-Con với cái! Thứ hư thân mất nết! Mặt mũi nào nhìn hàng xóm! Nhục nhã quá mà!
Tiếp theo lời mắng của má, là " cái đấm, cái đá " của hắn. Như trút hết cơn giận lên thân thể gầy còm bệnh hoạn của tôi. Hắn chẳng cần biết tôi đang bế con. Sợ đánh trúng con, tôi lấy thân ra đở. Đã thế má còn chế dầu vô lửa:
-Đánh cho chết thứ đàn bà lăng loàn cho tao! Cái thứ lộn nài bẻ ống theo trai! Có chết thứ hư thúi cũng không ai bắt đền đâu! Đánh nó chết tao chịu cho!
Tôi chịu đau rít lên:
-Thằng điếm đó đâu phải là con của má!Bị thằng khốn nạn lường gạt mà sao má hỗng thấy! Cứ bắt con phải làm bé cho thằng lùn mã tử cà chớn đó!
Hắn hâm doạ:
-Cô đừng hổn hào trả treo! Coi chừng cái mạng cô đó!
Tôi bướng bỉnh:
Anh là cái thớ gì mà đánh tôi! Thằng lùn mã tử khốn nạn! Chỉ biết núp vào gấu quần đàn bà! Tôi còn sống tôi sẽ đi nữa cho anh coi!
Hắn cung tay, tính đập tôi một trận nữa . Nhìn thái độ hung hăng của hắn, con gái sợ khóc thét lên. Má thấy vậy mới la át đi:
-Thôi đánh bao nhiêu đó đủ rồi! Để nó cho con bú rồi tính sau!
Tôi nhìn hắn, nhìn má lòng " oán hận " dâng tràn. Nhìn lại con đang vô tư nhoẻn miệng cười nhìn tôi. Đôi bàn tay bé nhỏ ôm bầu sữa mẹ nuốt từ ngụm sữa, qua thân thể gầy ốm của người mẹ khổ đau! Dòng lệ tủi hờn chợt lăn dài trên má , rồi rơi xuống trên gương mặt bầu bỉnh của con. mà bên tay vẫn còn nghe lời lải nhải đay nghiến của hắn:
-Coi chừng làm té con tôi thì chết với tôi đấy! Tội tày trời bộ oan ức hay sao mà khóc?
Ngày về đời bỗng cách ngăn
Nghe chừng hận oán cầm bằng non cao
Nghe từng sợi tóc cũng đau
Nghe chừng máu độc chuyền vào trái tim
Ngày đi ríu rít như chim
Ngày về như xác đã chìm biển Đông!
Tôi cắn răng, nghe nỗi đau từ trong tim, từ thân xác đang gậm nhấm. Tôi đã kiệt sức qua vụ tự tử hụt, qua trận mưa đòn tàn nhẫn, trong khi đó đôi mắt tôi đỏ bầm đau nhức, Vết bầm nhức nhối trên thân không đau bằng lời mắng nhiếc của má. Nó như chất độc chuyền vào máu tôi, nó sẽ giết tôi chết từ từ !Các anh thì ở xa, đứa em gái còn quá nhỏ, nó cũng sợ má như tôi, nên chỉ biết khóc khi thấy tôi bị hành hạ. Chẳng hiểu nghĩ sao, hắn lấy chai dầu nóng, xoa vào vết sưng rướm máu trên người tôi, lộ vẻ xót đau vỗ về :
- Mọi việc cũng tại em! Anh đâu muốn đánh em làm gì!
Tôi bướng bỉnh hất tay hắn ra uất nghẹn:
-Tôi không là vật vô tri mà không biết đau! Việc anh hành hạ tôi hôm nay đến "chết " tôi vẫn không quên! Anh cứu tôi làm gì chưa hẳn anh sẽ giữ được tôi! Tôi "thù" anh suốt đời!
Hắn bật cười ngạo mạn:
-Cô thù thì làm gì được tôi! Tại cô phản bội mới sanh ra cớ sự ! Khôn hồn thì nghe lời tôi! Hoạ may cái tội " ngoại tình " ấy tôi sẽ tha cho!
- Anh có bắt được quả tang không má cứ gán tôi vào tội ngoại tình hay nội tình! Lúc nào anh cũng đa nghi như Tào Tháo! Tôi mong có ngày sẽ thành sự thật!
Trước khi bỏ về Sàigòn, hắn tàn nhẫn nói thêm:
-Con trả lại con gái cho má! Má dạy dỗ lại đi!
Má cho là tôi hư hỏng làm xấu hổ gia đình, nên không cho các anh biết những chuyện đã xảy ra, dấu nhẹm việc tôi tự tử hụt. Cả tuần má giận tôi không ngó tới, vào giờ cơm tôi tránh mặt. Đến bữa anh Tám Búp về, thấy mắt tôi đỏ nên mới hỏi. Khi ấy má mới nhìn tôi, rồi giật mình thảng thốt kêu lên :
-Trời đất quỷ thần ơi! Sao con mắt đến đổi này! Muốn gì thì nói! Rủi chết thì nó lấy vợ khác phải thiệt thân mình hông! Con cái thiệt là dại!
Tôi nhìn má oán trách:
-Con có nói thật má cũng hỗng tin! Con sống hỗng nổi với con người hai mặt đó! Chẳng thà chết sướng hơn! Má biểu ảnh đánh chết con mà!
- Nó hỗng thương thì cưới bây để làm gì? Con gái tao chỉ gả một lần! Có tốt hay xấu cũng do duyên phận của bây mà thôi!
Tôi cay cú:
-Ảnh cưới con hay má bỏ tiền ra " mua rể "! Sao thương con mà tới bây giờ vẫn chưa làm hôn thú? Ảnh chỉ có tài nịnh bợ má! Chuyện chi má cũng dung túng cho ảnh!
- Vợ chồng cải nhau là thường! Hỗng lẻ mỗi lần đạp cức là chặt chân!
Tôi cười chua chát:
-Nói như má thì suốt đời con phải sống với kẻ thù hay sao? Má lại cầm quyền cho ảnh đánh con! Còn xúi ảnh giết con nữa!
-Tại bây hư nó đánh cũng đáng tội! Nó hỗng bỏ là may phước đó!
Anh Tám Búp nhìn má buồn hiu im lặng, vì anh biết anh có nói cũng bằng thừa. Tôi nhìn má như một người xa lạ nào, không muốn tranh cãi với người mẹ cổ hủ nông cạn, sợ mình nói lỡ lời không hốt lại được.
Ước chi đôi mắt ta mù
Để không nhìn thấy kẻ thù gần bên
Ước chi hận cũ ta quên
Để không đau nhức trái tim tật nguyền!
Ngồi bên bờ giếng, tôi tưởng tượng truyện người " mẹ ghẻ " trong Tấm, Cám. Chiếc lá lìa cành làm khuấy đọng mặt nước. Bóng tôi bế con chợt nhăn nheo buồn hiu hắt. Một ý nghĩ bệnh hoạn chợt thoáng qua, phải chi mình " mù " thật thì sẽ đở khổ hơn, bởi không còn nhìn thấy kẻ mình thù ghét.
Nỡi oán hận, tủi nhục bỗng dâng lên, tôi muốn lao đầu xuống giếng. Chợt đôi tay bụ bẩm của con sờ vào má tôi. làm tôi khựng... lại mà lòng se thắt! Nhìn vài đôi mắt với hàng mi cong vút của con. Đôi mắt thơ ngây nhân ái ấy như xoa dịu bớt nỗi đau, nỗi hận đang dậy sóng trong lòng. Siết chặt con trong đôi tay mình mà tự hứa với lòng.
" Dù trăm cay, nghìn đắng! Không thể để con bơ vơ vì mất mẹ! Sẽ vì con mà không huỷ hoại cái mạng sống thừa thải này! "
Kim Loan
Ngày đi môi thắm má hồng
Ngày về cỏ nội hoa đồng xác xơ
Lồng son nô lệ đang chờ
Ta như chiếc lá bên bờ tử sinh!
Ngày tôi đi như hoa đào buổi sớm. Ngày tôi về thì tàn tạ thảm thương. Mới mấy tháng xa nhà mà tôi vàng ẻo như chiếc lá sắp lìa cành. Nhìn lại chốn cũ mà lòng bùi ngùi, nơi một thời thơ ấu nhọc nhằn, tủi nhục của một thời con gái mà tôi không thể nguôi ngoai.
Ngày đi hoa hãy còn xinh
Ngày về thôi đã tội tình vương mang
Căn nhà tuổi nhỏ lầm than
Vẫn chưa xoá dấu thời gian nhục nhằn !
Nắng tắt dần sau dãy núi Dinh, tia cuối cùng như còn bịn rịn trên cây thập tự giá. Chúa đang dõi mắt nhìn xuống nhân loại khổ đau, không chỉ giáo dân của ngài, mà xót thương cả người ngoại đạo. Nhìn đàn chim vỗ cánh bay về núi, mà mơ ước mình có đôi cánh như chim. Tôi sẽ cất cánh bay thật xa... lìa bỏ cái tổ ấm này! Chiều cô thôn buồn bã quạnh hiu, lòng chợt lắng xuống khi nghe chậm rải tiếng chuông chùa Long Cốc .
Tôi vẫn đứng bên nay bờ đất lở
Trong cơn đau ngờ nghệch bóng tre gầy
Ta cúi mặt để nghe lòng nức nở
Đời bơ vơ tình chềt giữa đêm này !
Má đánh tròng trắng trứng gà với phèn chua, bọc trong miếng vải thưa, đắp lên mắt cho tôi. Ngày nào cũng đắp gần cả tháng máu bầm mới tan hết. Mắt tôi đã khỏi, vết thương trên người đã tan, nhưng trái tim tật nguyền vẫn còn rỉ máu, và mãi mãi... cái vết thương do má gây ra chẳng bao giờ lành!
Em đi đời bỗng lầm than
Thân tàn ma dại nôi oan ngậm ngùi
Về đây quê ngoại đau vùi
Tấm thân bệnh hoạn rã rời xanh xao!
Một lần bước chân ra khỏi luỹ tre xanh, nơi phồn hoa đô hội chỉ toàn là hiểm hoạ. Tôi chỉ ở nhà cô của hắn vài tháng mà tôi tàn tạ , bệ rạc thảm thương. Có muốn chết cũng không được, mà phải sống dật dờ, để nhận sự trừng phạt của hắn, và lời đay nghiến ghét bỏ của má. Chứng đau bụng mỗi ngày một tăng, khi đi phải khom người không đứng thẳng được.
Bụng thì đau, đầu thì nhức, giống như bị xiết bởi cài vòng kim cô của Tôn Hành Giả. Thêm ngày ngày phải nghe tới, nghe lui những lời trách cứ của má, như những câu thần chú của thầy Tam Tạng, làm càng nhức nhối thêm.
Tôi về tiếng bấc, tiếng chì
Đồng xanh gió bụi kinh kỳ mù bay
Những lời trách cứ đầy tai
Đau vùi năm tháng hao gầy tháng năm !
Trước khi chiến tranh tái phát. An Ngãi bị nạn cọp loạn rừng. Cọp kéo ra cả bầy, bắt heo...gà, rồi nằm trong vườn chuối, buội tre. Dân địa phương phải dùng phèn la, thùng thiếc, soang chảo.... đánh lên ầm ỉ gây tiếng động để xua đuổi cọp. Cọp nằm trong xóm cả tuần mới kéo nhau trở về rừng.
Bệnh tới thời kỳ nặng, má mới đưa hai mẹ con tôi về nhà ngoại. Ông bà ngoại đã mất sớm. cậu mợ Tám Cát, thừa hưởng căn nhà từ đường. Nhà ngoại xa đường lộ lớn nên không nghe tiếng xe ồn ào, cuộc sống thầm lặng êm đềm, tốt cho người dưỡng bệnh. Mợ Tám có môn thuốc gia truyền về bệnh phụ nữ. Không chỉ nhờ thuốc mà nhờ sự săn sóc tận tình, sự thương yêu của cậu mợ, sự đầm ấm, hạnh phúc của gia đình cậu là liều thuốc chữa cái tâm bệnh của tôi.
Hai tháng trôi qua... tôi sống trong tình thương và sự bảo bọc của cậu mợ. Nghĩ đến sự nghiêm khắc lạnh lùng của má, tôi không muốn trở về nhà nữa. Má chỉ đường, hắn tìm đến An Ngãi để thăm. Tôi không mừng như người vợ trẻ mừng chồng, mà lộ vẻ khinh ghét bằng thái độ. Mợ Tám biết ý nên đuổi khéo:
-Nó còn đau nhiều! Không thể gần chồng được! Chừng nào nó thiệt mạnh thì mợ mới cho dìa!
Mợ không mời cơm nước, mà tôi cũng lơ luôn. Hắn giận mặt sượng ngắt như cơm chưa chín tới. Và hắn cũng thừa khôn ngoan biết bên họ hàng tôi chẳng ai ưa hắn cả. Hắn chẳng dại gì đụng vào người tôi, nếu không muốn bầm mình ra về. Hàng tre xanh quê ngoại không vồn vả chào đón người trai đô thị, mà cành lá lao xao như lời xua đuổi, vì sợ vướng bụi kinh thành.
Hắn lạc lỏng như con chó cụp đuôi, lủi thủi khuất sau hàng tre xanh. Tôi thở phào nhẹ nhỏm, thầm cám ơn mợ.
Chiều đi qua núi ngập ngừng
Bước chân con ngã mà chừng mẹ đau
Nghe đời hạnh phúc biết bao
Vì con cay đắng mẹ nào quản chi!
Khi con gái được 11 tháng, nó bắt đầu tập nói, giọng nói không ngọng nghịu như những đứa trẻ khác. Bước đầu đời tại nhà dì Mười, bước được vài bước thì té xuống khóc oà. Nhìn con với biết đi cùng tiếng nói đầu đời, từ chiếc miệng xinh xinh ấy. Tôi thấy hạnh phúc mình ở đó.
Lòng vui theo bước đầu đời
Nghe buồn man mác với lời mẹ ru
Đèn dầu khi tỏ khi lu
Năm canh mẹ thức buồn vu vơ buồn!
Má nhắn tôi về để ăn thôi nôi cho con. Thường thì cúng xôi, chè, rồi đem thức ăn, đồ vật. Trong đó có những món tượng trưng cho 4 nghề là : sĩ, nông, công, thương. Nếu nó chọn món nào, thì lớn lên sẽ làm nghề đó. Nó nhìn quanh một lượt, một tay lượm cái gương, tay lượm lượt đưa lên chải đầu, rồi bỏ lượt, lượm cây viết.
Thấy anh Tám Búp về , nó mừng rở chập chửng chạy tới cậu. Anh bế nó lên hôn tới tấp, hai cậu cháu quấn quít bên nhau. Một tình thương gắn bó, như không sợ sệt như lúc gặp cha. Anh hỏi nó chọn món nào, nghe tôi kể lại, anh cười trêu chọc:
-Coi bộ lớn lên chỉ biết ăn diện! Đừng làm đào hát nghe con!
Má góp vào:
-Nó lượm thêm cây viết! Thế nào cũng làm việc văn phòng!
Sẵn dịp anh tiếp luôn:
-Muốn nó làm việc văn phòng thì ở đây cho ăn học! Chớ theo thằng cha tối ngày chỉ biết say sưa, mèo mở thì tương lai làm đào hát là cái chắc! Thằng đó nó còn " tốt số " nên chưa dám đụng tới con! Tưởng đây ai cũng ngu hết hả! Cha nó lú thì chú nó khôn! Láng cháng đem em tui đi là bỏ mạng sa trường!
Má hứ một tiếng rồi bỏ ra nhà sau, anh láy mắt nhìn tôi cười mỉm. Tôi bỗng nghĩ đến hắn, ngày sanh nhật của con cũng không biết, thì nói chi nhìn thấy bước chân đầu đời của con. Nhìn con tôi bỗng thầy buồn vu vơ, nhìn lại mình tôi càng thêm chán nản.
Tôi về vướng bụi kinh thành
Làm dơ chiếc áo lấm cành ô môi
Hương cau, phấn cám bẩn rồi
Hương thừa đô thị vừa rơi sau vườn !
Mặc lại chiếc áo bà ba thân mến, lòng bỗng thẹn vì gió bụi kinh thành đã làm dơ chiếc áo mất rồi. Dù không khí vẫn trong lành, nhưng mùi hương cau, bông bưởi như vướng vít ít nhiều hương thừa tôi mang về từ đô thị.
Sàigòn được gọi là "Hòn ngọc Viễn Đông ", nằm trong tỉnh Gia Định ở phía Bắc. Phi trường Tân Sơn Nhất củng nằm trong tỉnh Gia Định. Chợ Sàigòn khai trương vào năm 1914. Việt Nam được thế giới biết nhiều khi cuộc chiến cường độ lên cao.
Năm 1963 là một năm biến động. Tôi về Bà Rịa không lâu thì các cuộc biểu tình nổi lên nhiều hơn. Từ Huế biểu tình của sinh viên Phật tử đã đổ máu. Cuộc xô xát khiến 7 thường dân bị chết, 1 bị thương và 5 binh sĩ bị thương.
Tự thiêu lửa dậy chiều nay
Sài gòn hổn độn từng ngày không yên
Đến hồi vận nước ngửa nghiêng
Thiên tai, bão lụt triền miên không ngừng!
Bồ Tát Quảng Đức
Tại Sàigòn, ngày 11-6-1963, tại ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt. Cuộc " tự thiêu " đầu tiên của Hoà Thượng Thích Quảng Đức. Pháp thể ngài cháy tan chỉ trừ trái tim Bồ Tát vẫn còn nguyên.
Bồ Tát Quảng Đức tự thiêu-
Ngã tư Phan Đình Phùng- Lê Văn Duyệt
Bà cố vấn Ngô Đình Nhu phát ngôn với những lời kiêu căng và thách thức. Mỉa mai các sư tự thiêu là " màn trình diễn thịt sư nướng " (Monk barbercue show) . Bà tuyên bố với ký giả Mỹ về các cuộc tự thiêu của Phật Giáo: " Hãy để cho họ barbercue (nướng thịt).Họ cứ nướng, và chúng ta vỗ tay ".
Nhiều tu sĩ lần lượt tự thiêu tại các tỉnh. Và bà Nhu lại nói thêm với ký giả Mỹ: " Nếu họ cần diêm quẹt để nướng thêm thịt, tôi sẽ cung cấp cho ".
Bà cố vấn Ngô Đình Nhu (Trần Lệ Xuân)
Suốt tháng 7, đường phố Sàigòn náo loạn, hổn độn. Sau Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, đến nhà văn Nhất Linh tuẫn tiết. Ba tuần lễ sau ngày 7-7-1963 (17-5-1963 âm lịch) .Cái chết của ông là một chấn động làm rung rinh chế độ Ngô Đình Diệm , cả trong dư luận trong nước và quốc tế.
Văn hào Nhất Linh- Nguyễn Tường Tam
Nguyễn Tường Tam 1905-1963. Là nhà văn, nhà báo với bút danh Nhất Linh, Đông Sơn (khi vẽ) , và cũng là chính trị gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 20. Ông sinh ngày 25 tháng 7 năm 1905, tại huyện Cẩm Giàng, Tỉnh Hải Dương. Nguyên quán làng Cẩm Phổ, Huyện Điện Bàn, Tỉnh Quảng Nam.
Nhất Linh từng là chủ bút của những tờ báo lớn như : Phong Hoá, Ngày Nay. Ông là người thành lập Tự Lực Văn Đoàn, và là cây bút chính của nhóm. Để lại nhiều tiểu thuyết nổi tiếng như : Đoạn Tuyệt, Bướm Trắng, Đời Mưa Gió.
Ngày 20-8, lệnh giới nghiêm ban hành trên toàn lãnh thổ miền Nam, lệnh thiết quân luật trong phạm vi thủ đô Sàigòn. Đêm 20-8- 1963. Cảnh Sát Dã Chiến và Lực Lượng Đặt Biệt, tấn công một số chùa tại Sàigòn như : Xá Lợi, Ấn Quang... Tại Huế như : Từ Đàm, Ling Quang... Thiên tai bão lụt miền Trung và cuộc nỗi loạn của 4 trại Lực Lượng Đặc Biệt Thượng tại Darlac.
Đại sứ Henry Cobot Lodge
Đại Sứ Henry Cobot Lodge sang nhậm chức ngày 22-8-1963, thay thế Frederick E.Nolting Jr. Sau 3 ngày Đại sứ Mỹ nhậm chức, ngày 25-8-1963, một cuộc biểu tình do sinh viên, học sinh tổ chức gần chợ Bến Thành Sàigòn. Nữ sinh Quách Thị Trang cầm biểu ngữ đi đầu ngã gục, chết lúc tuổi 15.
Quách Thị Trang sanh năm 1948 tại làng Cổ Khúc, huyện Tiên Phước, tỉnh Thái Bình. Theo mẹ di cư vào Nam năm 1954 lúc lên 6. Sau năm 1963, bên cạnh chợ Bến Thành được dựng một đài tưởng niệm với cái tên "công trường Quách Thị Trang ".
Năm 1960, ngài Narada Maha Thera đến viếng núi Lớn, và đã trồng tại đây cây Bồ Đề. Tấm bia tại đây đã ghi. Cội Bồ Đề lịch sữ này là con cháu của cội Sri Maha Bodhi tại Bồ Đề Đạo Tràng (Ấn Độ). Từ chính cội cây thiêng liêng ấy , một nhánh được cung thỉnh về trồng ở Anuradhapura xứ Sri Lanka (Tích Lan). Đại đức Narada Maha Thera cung thỉnh một cây con từ gốc này, đến trồng tại đây ngày 2 tháng11 năm 1960, nhằm ngày 14 tháng 9 năm Canh Tý Phật lịch 2503.
Vào khoảng năm 1957, nơi đây còn hoang sơ với ngôi chùa Thiền Lâm khiêm tốn. Ngôi chùa nằm trên mạn sườn núi phía Bắc của núi Lớn . Cổng chùa quay về hướng đường Trần Phú. Toàn thể khung viên chùa rộng khoảng 5 ha, bao gồm quần thể các chùa và các tượng Phật. Giáo hội Phật Giáo Nguyên Thuỷ hệ phái Nam Tông, đã tổ chức trùng tu ngôi chùa bên dưới và xây cất Thích Ca Phật Đài trên núi Lớn. Toàn bộ khuôn viên Thích Ca Phật Đài như một vầng trăng khuyết.
Tượng Thích Ca thành đạo cao 11,6m, trong đó có 3 viên ngọc xá lợi. Đường kính bệ dài 6m.
Bảo tháp Xá Lợi hình bát giác cao 17m, bên trong đặt 13 viên xá lợi Đức Phật. Bốn phía đặt bốn đỉnh lớn, trong có chứa đất mang về từ bốn thánh địa ở Ấn Độ là vườn Lâm Tỳ Ni, nơi Đức Phật đản sanh, nơi Đức Phật thành đạo, Bồ Đề Đạo Tràng, vườn Lộc Uyển, nơi Đức Phật chuyển pháp luân và rừng Sala Song Thọ tại Kushinagar nơi Đức Phật nhập diệt.
Năm 1963 (Quý Mão) . Sau hơn 19 tháng xây cất. Thích Ca Phật đài khánh thành ngày 9-3-1963, tức ngày 15-2 âm lịch. Dưới sự chứng minh của Đại Đức Narada Maha Yhéra, Đại Đức Bửu Chơn, Tăng Thống Giáo Hội tăng Già Nguyên Thuỷ Việt Nam, cùng một số chư vị Hoà Thượng, Thượng Toạ, Đại Đức, Tăng Ni, Phật tử. Người đứng đầu tổ chức là cụ Mai Thọ Truyền. Hội Trưởng Hội Phật Học Nam Việt.
Trung Tướng Tôn Thất Đính bên trái
duyệt binh ngày 29-8-1963
Cuộc đảo chánh lần thứ ba
Họ Ngô chết thảm thương thay
Gây nhân quả đắng trả vay là thường
Hưng thời mộng bá đồ vương
Hết thời còn chỉ nắm xương dập vùi...
Cuộc đảo chánh lần thứ ba, bắt đầu từ 1 giờ 30 chiều ngày 1 tháng 11 năm 1963, bằng Quân sự do Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thành phần các Tướng Lãnh sau đây đã nằm trong nhóm đứng ra tổ chức đảo chánh.
Trung Tướng Dương Văn Minh , Trung Tướng Trần Văn Đôn, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, Thiếu Tướng Nguyễn Khánh, Thiếu Tướng Lê Văn Kim, Thiếu Tướng Trần Văn Minh, Thiếu Tướng Phạm Xuân Chiểu, Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm- Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, Đại Tá Đỗ Mậu, Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Tá Nguyễn Văn Quan, Đại Tá Nguyễn Hữu Có, Đại Tá Trần Ngọc Huyến, Đại Tá Nguyễn Khương, Đại Tá Đỗ Cao Trí.
Cuộc đảo chánh bắt đầu vào 1:30 chiều. Khởi sự bằng một sự chạm súng ngắn gần cổng của Bộ chỉ huy, với Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam trung thành với Tổng Thống Diệm.
Trung Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho Thiếu Tá Trương Ngọc Lực, chỉ huy trưởng vùng 3 sông ngòi, và Đại Uý Nguyễn Kim Hương Giang, chỉ huy trưởng giang đoàn 24 xung phong, kiêm chỉ huy trưởng đoàn giang vận, hạ sát Đại Tá Hồ Tấn Quyền (Tư lệnh Hải Quân), khỏi vai trò chỉ huy binh chủng Hải Quân. Hai ông này đã lừa Đại Tá Hồ Tấn Quyền ra Thủ Đức và hạ sát tại rừng cao su vào sáng ngày 1-11-1963.
Đại Tá Hồ Tấn Quyền
Người thứ hai là Đại Tá Lê Quang Tung (Tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt). Trung Tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho Nguyễn Văn Nhung đưa Đại Tá Lê Quang Tung ra nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế, phía sau Bộ Tổng Tham Mưu đâm chết và vùi thây ở đó. Người thứ ba là Thiếu Tá Lê Quang Triệu ( Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt).
Đại Tá Lê Quang Tung
Tổng Thống Diệm đã phản ứng như ông đã phản ứng năm 1960. Ông nhắc máy điện thoại tìm người trung thành với mình trong các Tư Lệnh Quân Đội. Nhưng tình thế bây giờ đã khác. Những Tướng lãnh cứu ông lần trước, lần này đã tham gia đảo chánh.
Ông Diệm và ông Nhu từ chối đầu hàng, Họ vẫn dùng điện thoại để tập họp sự ủng hộ. Khoảng 8 giờ chiều hôm đó , anh em ông Diệm đã lên chiếc xe mầu đen do ông Cao Xuân Vỹ lái, bí mật ra khỏi dinh Gia Long, đến tạm trú nhà Hoa Kiều Mã Tuyên.
Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu- Trung Tá Nguyễn Cao Kỳ
Khoảng 8 giờ chiều, Tướng Minh ra lệnh tấn công vào dinh Gia Long. Người chọn để thi hành cuộc tấn công là Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, một sĩ quan Công Giáo, lúc đó là chỉ huy Sư Đoàn 5 Bộ Binh.
đảo chánh 1963
Vào lúc 3 giờ sáng ngày 2/11.Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu mở nhiều đợt tấn công với Thiết Giáp và Pháo Binh, nhưng các cuộc tấn công bị đẩy lui. Những quân nhân trung thành với ông Diệm đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, mặc dù thua sút về quân số, vũ khí, mặc dù không được tiếp tế và mặc dù ở trong tình thế tuyệt vọng. Cuối cùng nhóm đảo chánh đã phải cầu cứu Trung Tá Nguyễn Cao Kỳ, cho phi cơ phóng pháo lên bắn phá thành Cộng Hoà, để hỗ trợ quân đảo chánh và áp đảo tinh thần những binh sĩ phòng thủ dinh Gia Long.
đảo chánh 1963
Hồi 5 giờ sáng ngày 2/11, binh sĩ trong dinh Gia Long kéo cờ trắng đầu hàng, sau khi được lệnh bằng điện thoại của ông Diệm. Hồi 6:45, ông Diệm lại gọi điện thoại. Người nghe điện thoại là Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm. Ông Diệm cho Tướng Khiêm biết, ông và ông Nhu hiện đang ẩn náu tại nhà thờ cha Tam (Chợ Lớn), và yêu cầu đem xe đến đưa về bộ Tổng Tham Mưu, để gặp các Tướng lãnh.
Đại Sứ Henry Cobot Lodge- Tổng Thống Ngô Đình Diệm
đảo chánh 1963
Tướng Dương Văn Minh bèn cử Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, Đại Tá Nguyễn Văn Quang, Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa và Đại Uý Nguyễn Văn Nhung. Đem xe thiết vận xa M-113 mang số 80989, đi rước những kẻ đầu hàng về bộ Tổng Tham Mưu.
Đoàn xe rời bộ Tổng Tham Mưu hồi 7:30 . Tướng Trần Văn Đôn sửa soạn một căn phòng cho anh em ông Diệm và mời bác sĩ Đinh Xuân Minh đến "săn sóc cho cụ ".
đảo chánh 1963
đảo chánh 1963
đảo chánh 1963
Khoảng 8:30, chiếc xe thiết giáp về đổ tại sân bộ Tổng Tham Mưu với 2 xác chết trên sàn xe. Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bị bắn đằng sau ót. Ông Nhu bị bắn ở lưng và bị đâm nhiều nhát trên ngực. Hai tay các nạn nhân đều bị trói quặt ra đàng sau lưng. Hình ảnh chết rất là thê thảm.
Lễ an táng của vị Tổng Thống bị lật đổ còn thua một người lính tử trận. Phải hối hả lén lút chôn vào lúc nửa đêm. Trong khuôn viên bộ Tổng Tham Mưu, giữa bóng đêm mù mịt, ánh đèn chỉ đủ sáng để hạ huyệt 2 quan tài. Chỉ có 1 linh mục người Pháp, thân nhân chỉ có ông bà Trần Trung Dung, một số quân nhân với người trưởng ban an táng.
Dòng họ Ngô Đình hưng thời đã lên tuyệt đỉnh vinh quang, khi hết thời là cái chết bi thảm và gia đình tan nát. Chấm dứt 9 năm xây dựng cơ nghiệp của dòng họ Ngô Đình. Mà bà Nhu cũng có một phần trách nhiệm vì lời phát ngôn bừa bải.
Ngày 10 tháng 8 năm 1963, bà cố vấn Ngô Đình Nhu và con gái Ngô Đình Lệ Thuỷ đi công du nước ngoài nên thoát nạn. và ông Ngô Đình Luyện Đại Sứ tại Anh kiêm đại diện các nước Âu Châu. Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục sang Vatican vào 8-9-1963 . Chỉ cậu út Ngô Đình Cẩn có biệt danh là " Lãnh chúa miền Trung) bị xử bắn tại khám Chí Hoà ngày 9-5-1964. Bà cụ Ngô Đình Khả cũng qua đời năm 1964.
Ngô Đình Cẩn trước giờ xử bắn
Đệ Nhất Cộng Hoà sụp đổ, những người có công đều được thăng chức lên lon. Người dính dáng chế độ cũ hoặc bị giết hay đào thải, những người bắt bớ giam cầm được phóng thích.
Những xóm Đạo họ để tang thương tiếc Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Bầu trời Bà Rịa u ám, mưa rỉ rả đến mấy ngày. Cả trời cũng khóc cho một vị Tổng Thống, và cũng là điềm trời khóc cho đất nước Việt Nam, sẽ phải chịu ách nạn khi mất một vị minh quân. Một ngày Định Mệnh mà hai anh em cùng chết chung trong tình huống quá thê thảm, bởi những kẻ phản tướng tàn nhẫn không có nhân tính và trái tim.
Tôi không là nhà phê bình, không biết gì về chính trị. Nhưng trong thời thơ ấu, thì đã sống trong cảnh loạn lạc, người dân khốn khổ vì nạn Bình Xuyên, giống như loạn sứ quân. Thêm tệ đoan xã hội như xóm mãi dâm Bình Khang, Đại Kim Chung... Phải công tâm mà nói người dân đã sống mấy năm thanh bình, nhà nhà no ấm. Nhà không bao giờ khoá cửa, không có ăn trộm, không có tệ nạn xã hội.
Triều đại nào cũng có " gian thần, nịnh thần, phản thần " . Khi lệnh trên đưa xuống, họ muốn lập công nên làm hơn để lấy lòng bề trên. Những kẻ chủ mưu đổ tội cho nhau. Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi đã nhận định sâu sắc như sau ( giết chủ rồi, lũ đầy tớ nhìn nhau lo sợ ).
Cháy nhà mới lòi ra mặt chuột. Tướng Nguyễn Văn Thiệu chửi tướng Dương Văn Minh là "thằng hèn, thằng nói láo ". Lời chửi sâu sắc và xác đáng này cũng có thể dùng để nói về toàn thể Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng 1963. Trong đó có Tướng Thiệu.
Cái đau là Mỹ thuê làm đảo chánh, lật đổ và giết Tổng Tống Ngô Đình Diệm, lại bị Tổng Thống Johnson đã gọi các Tướng Miền NamViệt Nam là " một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa ".
Cùng một tháng sau 3 tuần ,ngày 22-11-1963, thì vụ ám sát Tổng Thống Kennedy xảy ra tại thành phố Dallas, Texax. Cả 2 cái tang của 2 vị Tổng Thống, xảy ra trong 3 tuần lễ, đã làm rúng động miền Nam. Tình hình chính trị miền Nam hỗn loạn, thêm thiên tai bão lụt. Quân đội Cộng Sản Bắc Việt gia tăng, gồm các đơn vị chính quy xâm nhập miền Nam.
Anh Tám Búp và tôi nghe tin Tổng Thống Kennedy bị ám sát, hai anh em tôi đều buồn và thương tiếc như cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Thời điểm vị Tổng Thống trẻ nhất trong lịch sữ nước Mỹ . John F Kennedy cùng phu nhân Jacqueline Bouvier Kennedy. Đáp máy bay tại Love Field ở Dallars bang Texas đến thăm thành phố Dallars ở bang Texas, cũng chính là ngày Định Mệnh mà ông rời xa cõi đời. Ngày 22-11-1963. Vụ ám sát ông Kennedy diễn ra ngay sau đó khoảng 1 tiếng.
Tổng Thống Kennedy và phu nhân cười tươi với người dân xung quanh đường chào đón họ ở Dallars ngày 22-11-1963.
Đoàn xe của Tổng Thống Kennedy đi trên phố Main St, sắp đến gần Dealay Plaza.
Tổng Thống Kennedy trúng đạn của tay súng khi đoàn xe chở ông đi quanh Dallars lúc 12h30 ngày 22-11-1963. Phu nhân Jacqueline ngồi kế bên ông. Còn Thống Đốc Bang Texas John Connally ngồi ở hàng ghế trước.
Ngay sau vụ nổ súng, chiếc Limousine chở ông Kennedy đang bị thương nặng nhanh chóng lao về bệnh viện gần nhất.
Người dân bật khóc bên ngoài bệnh viện, sau khi hay tin Tổng Thống Kennedy qua đời vì trúng đạn.
Phu nhân Jacqueline, mặc bộ đồ còn nguyên những vết máu vấy từ thi thể chồng, nắm tay anh chồng là Bộ Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy. Trong khi đó, lực lượng an ninh nhắc quan tài đặt thi thể ông từ xe cứu thương. Lúc này đoàn người đã đến từ căn cứ Không Quân Andews gần Washington.
Ông Lyndon B Johnson tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống Mỹ, kế nhậm ông Kennedy, ngay trong chiếc không lực đậu ở Texas vào chiều ngày 22-11-1964.
Đoàn xe ngựa chở quan tài Tổng Thống Kennedy vào ngày 24-11-1963, để người dân viếng thăm lần cuối.
Quan tài của Tổng Thống Kennedy được bao bọc bằng quốc kỳ Mỹ tại trụ sở quốc hội ngày 24-11-1963.
Phu nhân Jacqueline hôn lên quan tài chồng, kế bên là con gái Coroline.
Phu nhân Jacqueline, cùng con gái Coroline và con trai John F Kennedy Jr, ngày 25-11-1963 , trước khi chôn cất cố Tổng Thống.
Câu nói của ông đã thành danh ngôn để lại ( Đừng hỏi Tổ Quốc đã làm gì cho anh, mà tự hỏi anh đã làm gì cho Tổ Quốc ).
Hai lần đảo chính trong năm 1964
Lần thứ nhất vào ngày 30-1-1964, do Tướng Nguyễn Khánh và Tướng Trần Thiện Khiêm.
Lần thứ nhì vào 13-9-1964, do Tướng Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát.
Lần thứ ba 19-2-1965 , do Tướng Nguyễn Khánh và Nguyễn Chánh Thi.
Tướng Nguyễn Khánh
Tướng Trần Thiện Khiêm
Tướng Dương Văn Đức
Tướng Nguyễn Chánh Thi
Tướng Dương Văn Minh- Nguyễn Ngọc Thơ
Ba năm, sáu chính phủ. Hội Đồng với Quốc Trưởng là Tướng Dương Văn Minh, thủ tướng là Nguyễn Ngọc Thơ. Chỉ thời gian ngắn ngày 30-1-1964 , Tướng Nguyễn Khánh làm cuộc chỉnh lý. Tướng Nguyễn Khánh có đến Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, và tôi phải đi trong Thanh Nữ Cộng Hoà đến chào đón ông. Trong thời gian Nguyễn Khánh lãnh đạo, ngày 3-2-1964 Việt Cộng tấn công vào căn cứ Mỹ tại Kontum. Đánh chìm tàu chuyển vận trực thăng USS Card ngày 2-5-1964.
Tàu USS Card
Đặt bom hí viện Kinh Đô ngày 7-3-1964. Tấn công phía Bắc tỉnh lỵ Komtum và trại Nam Đồng ở phía Tây Nam Đà Nẳng ngày 4-7-1964. Phi trường Biên Hoà bị pháo kích ngày 1-11-1964. Đặt bom khách sạn cư xá Brink sĩ quan Mỹ độc thân ngày 24-12-1964 và Đại sứ Quán Hoa Kỳ ngày 30-3-1965. Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, nhà hàng Caravelle... đều bị đặc công phá hoại.
Dân bị thương trên đường phố trong vụ nổ bomb vào Đại sứ Quán Hoa Kỳ ngày 30-3- 1965 ( ảnh AP/Host Faas)
đặt bom cư xá Brink của sĩ quan Mỹ độc thân 24-12-1964
Khi đảo chánh lần thứ nhì chỉ vài tiếng đồng hồ, người dân hết còn sững sờ như chuyến đảo chánh trước. Tình hình hỗn loạn, người dân bất an.
Sau khi thụ huấn tại Trung tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Rạch Dừa, khi mãn khoá anh Tám Búp được biết phái về Long Điền. Chỉ vài kỳ lương, anh dành dụm đủ tiền để đi làm lại thế vì khai sanh vào
ngày 30-6-1964. Anh Tám Búp, tôi với em Mười Thanh. Trong hai người chứng là anh Tư Dận, thay vì tôi sanh năm 1945 lại làm lộn năm 1944. Chúng tôi vẫn giữ tên cũ, vì nghĩ rằng Cậu đã đặt tên mà Định Mệnh đã gắn liền với cái tên.
Anh Tám Nguyễn Văn Búp
Khi đã có tờ thế vì khai sanh, anh Tám Búp bảo:
-Anh dám cá với em! Tới tận thế nó cũng không làm được hôn thú!
Tôi thì chỉ mong lột mặt tên vua xạo ra, để xem hắn còn kiếm cớ gì nữa cho biết. Khi hắn về má vô đề ngay:
-Giấy khai sanh có rồi đó! Bây ra mần hôn thú cho xong đi! Để hàng xóm dị nghị tiếng tăm hỗng tốt!
Hắn cầm tơ khai sanh trả lời tỉnh queo:
-Thình lình quá con đâu có đem giấy tờ theo! Con có quen ngoài xã làm dễ ợt hà! Tuần sau con về là mần liền!
Nhìn hắn trả lời mà gương mặt đểu không chịu được. Sau chuyến ấy, hắn trốn biệt cho đến cuối năm 1964, khi trận chiến Bình Giã mở màn cũng chưa về. Tôi không buồn khi mình bị " bỏ rơi " . Anh em tôi phân tích sự thật cho má thấy nhưng người vẫn bênh chầm chập :
-Tại nó lính tráng kẹt chưa dìa được! Mần gì có chuyện nó gạt gẩm! Nó hứa thì ráng chờ! Tụi bây hùa nhau đổ tiềng oan cho nó không hà! Tao hỗng muốn nghe đứa nào nói hành nói tỏi nó hết!
Má giận đứng dậy te te đi tuốt. Anh Tám nhìn tôi lắc đầu thở dài... hết ý kiến. Anh nhìn tôi thương hại an ủi:
-Thôi em đừng buồn nữa!Số phận em đã vậy nói gì má cũng hỗng nghe! Đến anh cũng phải đầu hàng! Sớm muộn gì cái mặt lưu manh dối trá của nó cũng lộ ra! Chỉ mong một ngày nào đó má nghĩ lại mà thương em!
Tôi tức ấm ách nên nặng lời :
-Em chưa thấy ai mù quáng như má! Con em đã 2 tuổi rồi! Má biểu em chờ, mà chờ đến bao giờ?
Nắng đi mưa ở chẳng đành
Chim oanh đậu lộn trên cành họ Lưu
Trên trời lấp lanh sao Ngưu
Kiếp xưa chắc có oan cừu với ai !
*****
Bạn Tình
Đời anh lính chiến muôn phương
Đời tôi lầm lỡ tình vương hận lòng
Trận Bình Giã ngày 3-12-1964 đến ngày 3-1 1965, bài viết Võ Trung Tín và Nguyễn Hữu Viên. Tôi xin trích đăng sau đây vì nó chính xác hơn. Kèm trong bài viết là những bài thơ tôi viết cho trận chiến Bình Giã, và cho người bạn tình lỡ xứ Huế là Y sĩ Đặng Văn Nhơn của Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù.
Trận Bình Giã là trận đánh xảy ra cuối tháng 12 năm 1964, trong chiến tranh tại làng Bình Giã, tỉnh Phước Tuy giữa Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và quân Cộng Sản Bắc Việt.
Bình Giã toạ lạc hai bên trục lộ trải đá trên một địa hình cao với rào tre bao quanh. Trục giao thông chính của Bình Giã là Liên tỉnh lộ 7, nối liền giữa hai tỉnh Bà Rịa và Long Khánh. Đa số đồng bào định cư nơi đây là giáo dân từ Thanh Hoá và Nghệ An di cư năm 1954. Khi bắt đầu định cư dân số làng Bình Giã độ khoảng 2.000 người. Đến năm 1964 dân số của làng Bình Giã lên đến khoảng 6.000 người.
ngôi chợ Bình Giã từ thuở mới lập cư 1955
Làng Bình Giã thuộc chi khu Đức Thạnh, cách tỉnh Phước Tuy khoảng 18 cây số, cách Vũng Tàu khoảng 38 cây số, cách Sàigòn khoảng 67 cây số về phía Đông theo đường chim bay. Ngôi làng nhỏ này chỉ có 2 trung đội Địa Phương Quân phòng thủ.
Người dân Bình Giã rất ngoan đạo, dưới sự lãnh đạo của một cha xứ. Khi quốc sách ấp Chiến Lược ra đời, lành Bình Giã được tổ chức thành một ngôi làng kiểu mẫu, những luỷ tre xanh nhanh chóng mọc lên quanh làng. Dân làng được cha xứ tổ chức thành đội ngủ, được trang bị vũ khí đến cấp Trung đội. Những trạm canh quanh làng được tăng cường với hệ thống mìn, bẩy, sáng tháo, tối gài.
Khởi đầu xâm lược miền Nam, Cộng Sản hoạt động tuyên truyền, phá hoại, ám sát viên chức chánh quyền (các hoạt động này xảy ra khắp nơi, nhưng tuyệt đối đã không xảy ra tại vùng Bình Giã. Cộng Sản đã thất bại không gây được hạ tầng cơ sở, trà trộn với dân làng, như những địa phương khác. Ngược lại, mỗi người dân Bình Giã là một tình báo viên. Mọi tin tức đều được báo cáo lên cha sở, để cha sở đúc kết gởi lên quận. Có thể nói là tin tức tình báo mà Chi Khu Đức Thạnh và tiểu khu Phước Tuy nhận được từ Bình Giã là nguồn tin đáng tin cậy nhất.
Khi trận Bình Giã xảy ra, người Bình Giã với hai bàn tay không đã tham gia, chiến đấu sát cánh với lực lượng bạn khi hành quân tái chiếm làng. Khi Cộng Sản tấn công làng, dân chúng ẩn nấp trong hầm kín đáo theo dỏi và báo cáo về quận mọi lực lượng của địch, che dấu thương binh và khi đơn vị tái chiếm làng, cả làng mang thực phẩm và nước uống ra tiếp đón, uỷ lạo.
Làng Bình Giã cũng là nơi địch quân lựa để bắt đầu leo thang chiến tranh, từ du kích chiến đến trận địa chiến. Cộng Sản đã áp dụng chiến thuật " Công đồn đã viện" , đánh chiếm làng Bình Giã bằng lực lượng địa phương để nhữ đánh các đơn vị tiếp viện. Bình Giã được chọn làm mục tiêu vì Bình Giã ở cách xa quận, chi khu và chỉ được bảo vệ với 2 Trung Đội Bảo An (Lực lượng địa phương sau này đổi thành Địa Phương Quân).
Lực lượng Cộng Sản Bắc Việt
Cộng Sản đã tung vào chiến trường 2 Trung đoàn chính quy Q761 và Q 762, được tăng cường Trung đoàn 80 Pháo binh cùng với 2 Tiểu đoàn 500 và 800 chủ lực quân khu miền Đông. Tiểu đoàn 186 của quân khu 6. Đại đội D445 và các đơn vị du kích huyện và xã tỉnh Bà Rịa. Lực lượng tham dự lên đến 7.000 người, được đặt dưới sự chỉ huy của Trần Đình Xu và chính uỷ Lê Văn Tưởng.
Lực lượng Việt Nam Cộng Hoà
2 Trung đội Bảo An trấn giữ Bình Giã
Chi đoàn 3 Thiết vận xa. Chi đoàn M24 Thiết Giáp. Các Tiểu đoàn 30, Tiểu đoàn 33 và Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân.
Tiểu đoàn 4 Thuỷ Quân Lục Chiến. Tiểu đoàn 1, 3 và 7 Nhảy Dù.
Diễn tiến
Vào đầu tháng 12 năm 1964, các hoạt động du kích Cộng Sản gia tăng gấp bội tại quanh vùng Bình Giã, trong khi các đơn vị của Cộng Sản Bắc Việt từ chiến khu D di chuyển tập trung tại khu rừng phía bắc chi khu Đức Thạnh. Làng Bình Giã hình như bị đánh phá thường xuyên để thăm dò các vị trí bố phòng của làng.
Rạng sáng ngày 3-12-1964, để chào đón ngày kỷ niệm thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Đại đội D445 thuộc lực lượng địa phương tỉnh Bà Rịa, tấn công ấp chiến lược Bình Giã. Đồng lúc đó, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Q761 bao vây và pháo kích chi khu Đức Thạnh.
Hai ngày sau, 4-12-1964. BTL Quân đoàn 3 cho trực thăng vận Tiểu đoàn 30 Biệt Động Quân xuống trận địa, tại một địa điểm phía Tây Nam chi khu, để từ đây mở cuộc hành quân giải toả Bình Giã. Cuộc đụng độ khá ác liệt, quân Cộng Sản yếu thế nên đã rút lui. Việt Cộng bỏ lại trên trận địa 32 xác.
Ngày 8-12-1964. Đại đội 445 cùng với 1 Đại đội thuộc Trung đoàn Q 761 tấn công làng Bình Giã lần thứ nhì. Trong lúc đó, Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn Q 761 và Tiểu đoàn 5 thuộc Trung đoàn Q 762 đánh chi khu Đất Đỏ. Các đơn vị thuộc đoàn 80 Pháo binh, pháo kích 2 chi khu Đức Thạnh , Xuyên Mộc và Trung Tâm Huấn luyện Vạn Kiếp, để cầm chân yễm trợ cho các cuộc tấn công trên. Tuy nhiên, quân Cộng Sản đã bị đẩy lui. Các cuộc pháo kích của địch quân không gây ra thiệt hại nào đáng kể.
Ngày 9-12 Chi đoàn 3 thuộc Trung đoàn 1 Thiết Giáp được lệnh mở cuộc hành quân giải toả liên tỉnh lộ 7. Bốn ngày sau ngày 13-12, trên đường hành quân trở về, Chi đoàn 3 lọt vào ổ phục kích của Trung đoàn Q 762 tại Bình Ba, trên trục lộ Phước Tuy-Hàm Tân, cách sông Cầu khoảng 600 thước. Có đến 14 chiếc M 113, hơn phân nửa thiết vận xa của Chi đoàn bị phá huỷ và Đại Uý Ngọc Chi đoàn trưởng bị tử thương.
Ngày 14-12, một ngày sau khi Chi đoàn 3 Kỵ binh bị phục kích. Tiểu đoàn 4 Thuỷ Quân Lục Chiến được trực thăng vận xuống bìa làng phía Tây Bình Giả, để giải toả áp lực địch và giải vây cho phần còn lại của Chi đoàn 3 Kỵ binh còn đang cố thủ tại nơi bị phục kích. Khi Tiểu đoàn 4 Thuỷ Quân Lục Chiến bắt tay được với Chi đoàn 3 Thiết kỵ thì địch quân đã rút lui. Trận địa còn lại xác người và xác các xe thiết vận xa. M 113 bị phá huỷ trong rừng cao su bỏ hoang. Việt Cộng đã tháo gỡ, thu nhặt hết vũ khí luôn cả quân trang trên người chết chúng cũng không từ.
Tiểu đoàn 4 Thuỷ Quân Lục Chiến bố trí yễm trợ cho Chi đoàn 3 Thiết Kỵ thu dọn chiến trường và rút ra khỏi trận địa. Tiểu đoàn 4 Thuỷ Quân Lục Chiến tiếp tục hành quân tiến về phía rừng Sác giải toả áp lực địch dọc theo Quốc lộ 15, từ Phước Tuy đến quận Long Thành. Không có hoạt động nào đáng kể của địch quân được ghi nhận. Ngày 16-12-1964. Tiểu đoàn 4 Thuỷ Quân Lục Chiến di chuyển bằng xe GMC về Dỉ An và hằng ngày ứng chiến cho Quân đoàn 3 tại phi trường Biên Hoà.
Những ngày sau trận Bình Ba, không có một dấu hiệu nào cho thấy sự hiện diện của địch trong vùng. các đơn vị tham chiến của địch đã rút sâu vào rừng gần bãi biển Hàm Tân để tiếp nhận vủ khí đạn dược từ một chiếc tàu từ miền Bắc vào cập bến tại Lộc An ngày 22-12-1964, mang theo 44 tấn vũ khí gồm súng trường, CKC, tiểu liên AK 47, K50, thượng liên RPD và súng chống chiến xa B40. Số vũ này được trang bị ngay cho các cán binh Việt Vộng đang tham chiến.
Khuya ngày 28-12-1964, Đại đội D445 cùng với Đại đội 2 thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Q761 trở lại tấn công Bình Giã lần thứ 3. Đồng thời dùng đại bác 75 ly không giật trực xạ vào Chi khu Đức Thạnh.
Ngôi làng nhỏ Bình Giã này chỉ có 2 Trung đội Địa Phương Quân trấn giữ, chỉ sau một vài giờ giao tranh là bị thất thủ. Sau khi chiếm xong làng, địch tăng viện thêm quân để cố thủ.
Sáng ngày hôm sau 29-12-1964. Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân chia làm 3 mủi tiến quân vào Bình Giã, nhưng cả 3 đều chạm súng nặng. Việt Cộng đã bố trí trận địa, đào sẳn các công sự kiên cố chờ đánh viện binh trực thăng vận ở các bãi trống quanh làng. Phục kích Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân ngay khi chạm chân xuống đất. Tiểu đoàn này đã anh dũng chống trả mãnh liệt nhưng vẫn bị thiệt hại nặng. Tiểu đoàn trưởng và một Đại đội trưởng bị tử thương. Hơn 100 chiến binh còn sống sót đã kéo vào tử thủ ở ngôi nhà thờ chính trong làng.
Trong tình hình nghiêm trọng, ngày hôm sau Quân đoàn 3 lại cho trực thăng vận Tiểu đoàn 30 Biệt Động Quân xuống phía Tây Nam lành Bình Giã để tiếp cứu quân bạn. Cuộc đổ quân không gặp sự kháng cự nào của địch quân, nhưng Tiểu đoàn này bị cầm chân ngay khi bắt đầu tiến vào làng, và suốt ngày hôm đó Tiểu đoàn 30 vẫn không tiến lên được để bắt tay với Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân, đang cố thủ cách bìa làng độ 300 thước. Trong khi đó, nhờ sự che chở tích cực của dân làng, hơn 100 tay súng Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân vẫn giữ được vị trí, dù tất cả đều mang thương tích trên người.
Sáng ngày 30-12-1964. Tiểu đoàn 4 Thuỷ Quân Lục Chiến được trực thăng vận xuống phía Đông Nam ấp La Vân, để tăng cường cho lực lượng đã có sẵn tại đây chiếm lại Bình Giã. Quân số khiển dụng của Tiểu đoàn 4 Thuỷ Quân Lục Chiến khoảng 550. Tiểu đoàn trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Nho. Tiểu đoàn phó Đại Uý Trần Văn Hoán- ĐĐT Trung Uý Trần Ngọc Toàn, Trung Uý Đỗ Hữu Tùng, Thiếu Uý Nguyễn Văn Huệ, Trung Uý Nguyễn Đằng Tổng. 2 sĩ quan cố vấn là Thiếu Tá Elle- Trung Uý Brady, và sau tăng cường Đại Uý D G Cook, 22 Hạ sĩ quan Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ.
Sau đó Thuỷ Quân Lục Chiến bắt tay được với các cánh quân của 2 Trung đoàn 30 và 38 Biệt Động Quân, và đẩy lùi Cộng Sản về phía Đông. Đêm đến quân Cộng Sản lại trở lại tấn công làng Bình Giã nhưng đã bị đẩy lui sau gần một giờ giao tranh. Tuy nhiên trong khi yễm trợ quân bạn, một trực thăng Mỹ đã bị bắn rơi trong đồn điền cao su Quảng Giao cách làng Bình Giã khoảng 4 cây số. Phi hành đoàn 4 người đều bị tử thương.
Sáng ngày 31-12-1964. Tiêu đoàn 4 Thuỷ Quân Lục Chiến được lệnh đưa quân vào đồn điền cao su Quảng Giao để tìm chiếc trực thăng bị nạn hôm qua. Khi tiến đến đồn điền cao su, cách làng Bình Giã 2 km về hướng Đông. Đại đội 2 của Trung Uý tình báo cáo đã thấy chiếc trực thăng rớt đêm qua và xác phi hành đoàn. Đại đội 2 mở rộng địa hình lục soát và khám phá ra nhìn gò mả mới chôn nhưng thật ra là các vị trí độn thổ phục kích của địch.
Ngay lúc đó, quân Việt Cộng đã đội mồ tràn lên tấn công và vây đánh. Đại đội 2 xiết chặt địa hình chống trả mãnh liệt, chặn đứng nhiều đợt xung phong của địch. Sau khi bị thiệt hại mất một Trung đội Việt Cộng bị đẩy lui. Được tin chạm địch, Tiểu đoàn trưởng điều động Tiểu đoàn từ làng Bình Giã đến tiếp cứu. Khi Tiểu đoàn đến thì Việt Cộng đã rút lui.
Khoảng nửa giờ sau, một trực thăng tải thương và 2 trực thăng vỏ trang đến. Trực thăng tải thương đáp xuống nhận xác phi hành đoàn, nhưng từ chối chở 12 xác Thuỷ Quân Lục Chiến, bất chấp sự phản đối của các sĩ quan cố vấn Mỹ của đơn vị.
Mãi đến 16.00 giờ không có trực thăng tải thương nên Tiểu đoàn trưởng quyết định chuyển xác theo đường bộ về làng Bình Giã. Tiểu đoàn vừa thu quân chuyển sang đội hình di hành thì địch quân xuất hiện khắp bốn phía, nã súng không giật, súng cối tấn công tới tấp vào vị trí của đơn vị này, và sau đó chúng dùng chiến thuật biển người tấn công khi vừa dứt đợt pháo kích. Tiểu đoàn 4 Thuỷ Quân Lục Chiến chống trả dữ dội và chận đứng nhiều đợt xung phong.
Khoảng nửa giờ sau khi chạm súng, Thiếu tá Nguyễn Văn Nho Tiểu đoàn trưởng bị tử thương và Tiểu đoàn phó Đại Uý Hoán bị thương nặng. Và Y Sĩ Trưởng Trương Bá Hân cũng tử thương trong trận này. Y sĩ Trương Bá Hân sanh năm 1933 là anh cả của thầy Trương Thế Khôi là giáo sư trường Châu Văn Tiếp (Bà Rịa).
Cứu thương chiếc túi tả tơi
Cháy đen trên những xác người tanh hôi
Cỏ trang lửa dậy mù trời
Chôn đời y sĩ tan rồi ước mơ
Trung Uý Trần Ngọc Toàn, Trung đội trưởng, Trung đội 1 nắm quyền chỉ huy điều động Tiểu đoàn cố thủ trên ngọn đồi giữa rừng cao su Quảng Giao. Tại đây Tiểu đoàn đã chận đứng nhiều đợt xung phong và gây thiệt hại nặng cho Việt Cộng.
Trận đánh khốc liệt tiếp tục cho đến khi trời sụp tối. Trung Uý Ngọc Toàn bị thương ở chân đã cùng các quân nhân sống sót của 2 Đại dội 1 và 3 mở đường máu xông phá vòng vây chạy thoát về Bình Giã.
Tối đến phi cơ lên thả hoả châu soi sáng trận địa. Dưới ánh sáng hoả châu Trung Uý Nguyễn Đằng Tổng ĐĐT ĐĐ4 hướng dẫn các quân nhân còn tản lạc tìm đường trở lại Bình Giã.
Chiếc xe bò chở xác
Vùng đất chết rã rời
Bình Giã chiều ngơ ngác
Xương thịt từng mãnh rơi...
Quân Cộng Sản cũng rút lui khỏi trận địa và dùng xe bò chuyên chở xác các các binh tử trận về hướng rừng lá và Xuyên Mộc.
Chiếc xe bò chở xác
Loang loáng máu sa trường
Những cái thây tan nát
Cháy đen từng khúc xương
Đại Tướng Nguyễn Khánh chỉ định Đại Tá Lâm Quang Thơ, đang là Chỉ huy trưởng trường Thiết Giáp, làm Chỉ huy trưởng Chiến đoàn 5, mở cuộc hành quân Hùng Vương 2 để tảo thanh vùng Bình Giã.
Sáng ngày 1-2-1965, nhiều đơn vị quân đội được vận chuyển tới để tiếp viện cho mặt trận Bình Gĩa. 102 xác Việt Cộng bỏ tại trận.
Ngày 3-1-1965 BTL tiền phương của chiến đoàn 5, cùng Chi đoàn Kỵ binh gồm 15 chiến xa M24 cùng với Tiểu đoàn 3 Biệt Động Quân di chuyển từ Bà Rịa lên Đức Thành đã lọt vào ổ phục kích của trung đoàn Q762 trên Liên tỉnh lộ 7. Lực lượng hành quân bị thiệt hại nặng, hầu hết sĩ quan BTL tiền phương đều tử trận.
Chiếc xe bò chở xác
Dừng lại nhặt thi hài
Những chiến y tan nát
Còn lại tấm thẻ bài...
Cả tuần qua rừng tranh vẫn âm ỉ cháy, mùi tử khí tanh tưởi, mùi khét của thây người vẫn chưa tan . Người phu xe lặng lẽ nhặt từng khúc xương, từng cánh tay, những thân thể cháy đen sạm, vương vải khắp nơi, quân trang, súng đạn nằm lăn lốc. Xác người như cá chồng lên nhau trên chiếc xe bò. Từng đoàn xe bò như đoàn xe tử thần. Cái tên Bình Giã được nhắc nhở, được biết đến từ sau cuộc chiến thảm khốc đó.
Ngày sau đó, BTL Quân đoàn 3 trực thăng vận 2 Tiểu đoàn 1 và 3 Nhảy Dù xuống phía Đông Bình Giã, mở cuộc hành quân truy kích. và Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù mở đường từ Phước Lễ đến Bình Ba thu nhặt những xác binh sĩ tử trận của 2 đơn vị Thiết Giáp và Biệt Động Quân. nhưng không có cuộc giao tranh nào xảy ra, quân Cộng Sản đã rút lui.
Sau đó Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù được trực thăng vận đánh thẳng vào mật khu Hắc Dịch để càn quét. Cuộc hành quân không có đụng độ lớn vì địch quân lẫn tránh. Các Tiểu đoàn Dù khám phá được nhiều kho lương thực , vũ khí và đạn dược của Việt Cộng.
Hơn tuần qua đạn bom mờ Bình Giã
Ánh hoả châu soi sáng suốt đêm dài
Những chiến hữu anh hùng đang gục ngã
Cánh hoa dù bạt gió giữa trời mây
Hai Tiểu đoàn 1 và 3 Dù dừng quân ghé qua Long Hương (Bà Rịa). Nhìn đâu cũng thấy lính, ngoài vườn chuối, buội tre, gốc điều, cây vú sữa... Súng đạn, poncho, ba lô, máy truyền tin, để nằm lăn lóc phía hiên nhà trước. Nhìn họ còn rất trẻ, trông người nào cũng vui tính, có lẽ trong thời chiến họ đã chấp nhận cái chết từ ngày khoác áo nhà binh.
Một tốp hoả đầu quân gom đá làm lò, vào xin củi nhóm lửa nấu cơm. Tiếng nước xối ào ào ngoài giếng, tiếng gàu chạm vào thành giếng hoà với tiếng cười đùa làm vui nhộn hẳn lên. Những lo sợ biến mất, nhường cho sự vui mừng, vì họ đã trải qua một cuộc chiến tàn khốc, họ sống sót trở về từ vùng đất chết. Họ đang tắm rửa, giặt giũ những bộ chiến y vấy máu cùng bụi đường đất đỏ.
Chiều hôm ấy cửa nhà thờ được mở ra, dành cho ban Quân Y của Tiểu Đoàn 3 Dù tạm dừng quân. Trên cái bàn chính giữa nhà thờ, ngoài ba lô, túi cứu thương, có thêm một cây đàn. Xóm Đồng chiều nay thấp thoáng bóng người thiên thần mũ đỏ.
Mỗi khi lính Vạn Kiếp tập trận, nhà má thường được các chỉ huy chiếu cố. Tánh má "thương lính ", có lẽ các anh tôi đều là lính. Đây không phải là lần đầu tiên tôi làm " em gái hậu phương " nấu cho lính ăn. Hôm ấy tôi nấu cơm mà trong lòng vui như mở hội vì trong đoàn quân ấy có anh.
Tôi gặp anh người lính Dù mũ đỏ
Chiều hành quân dừng bước ghé nhà tôi
Người lính trẻ áo bạc mầu sương gió
Tóc bồng bềnh áo trận đẩm mồ hôi !
Anh tên Đặng Văn Nhơn, trong ban Quân Y của Tiểu đoàn 3 Dù. Tướng anh vừa tầm khoẻ mạnh với gương mặt chữ điền sáng nét nam tính, ánh mắt đượm vẻ trầm ngâm. Chiếc mũi thẳng, vầng trán cao với mái tóc bồng bềnh chưa kịp hớt , nước da ngâm sạm nắng thêm đậm nét phong sương đời lính. Trông anh thật lãng mạn như một nghệ sĩ.
Anh người trai xứ Huế
Em thiếu phụ miền Đông
Mình gặp nhau quá trễ
Em đã lỡ có chồng !
Chuyện tình lãng mạn, say đắm giữa chàng lính trẻ mang dòng máu bất khuất của miền Cố Đô vương giả, với một thiếu phụ miền Đông quê mùa mộc mạc. Hai đứa gặp nhau giữa mùa chinh chiến điêu linh.
Phút đầu tiên ấy gặp nhau
Nhìn anh mà bỗng xuyến xao trong lòng
Bỗng dưng đôi má em hồng
Như vừa uống cốc rượu nồng chợt say !
Từ chuyến thoát ly thất bại, tôi đã buông xuôi tất cả, nhìn con lớn lên với ngày tháng muộn phiền, với cô đơn tuyệt vọng, mà sự ràng buộc làm tôi ngộp thở . Đã lâu rồi tình cảm của tôi bị dồn ép không lối thoát, mà bên ngoài cứ phải " đóng kịch " chuyện vợ chồng tạm bợ để che mắt dư luận. Từ chuyến má kêu làm hôn thú, hắn hẹn rồi trốn biệt. Thế là tôi đã bị "bỏ rơi ". Tôi không buồn mà cảm thấy vui vì nghĩ là hắn đã trở về với vợ lớn, mình đã thoát nợ. Tôi có thể làm lại cuộc đời.
Phút giây hạnh ngộ ban đầu lưu luyến ấy, bắt gặp anh đang trộm nhìn. Ánh mắt như hai vì sao lạc làm tôi chao đảo, đã đánh thức trái tim tôi bừng dậy trong giấc ngủ mùa đông dài triền miên. Như có một sợi dây vô hình kỳ dị cột vào, sự thu hút như thỏi nam châm. Tiếng sét ái tình làm tim tôi rung động, hình như hai đứa đã hẹn nhau từ tiền kiếp?
Ô hay Thu đã sang mùa
Hình như tiền kiếp người vừa gặp ta
Vừa chạm phải đôi mắt tôi, anh sửng sờ đến ngẩn ngơ, như bị mũi tên thần ái tình bắn trúng. Có lẽ đôi mắt tôi quá u buồn làm tim anh rung động. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, nên dù tôi cố dấu nhưng không sao dấu được nỗi đau thương đang đè nặng trên vai người thiếu phụ trẻ. Anh nhìn tôi thương cảm làm tôi bối rối, tôi cúi đầu bước đi thật nhanh, sợ anh nhìn thấy tâm tư mình đang bị khuấy động!
Anh người trai mới lớn
Em thiếu phụ hai mươi
Đời anh buồn chưa gợn
Đời em sầu tả tơi...
Người trai Huế hiên ngang ấy chưa lập gia đình, còn tôi một thiếu phụ dở dang, một cánh hoa thôn dã đã tàn từ lúc nụ hoa vừa chớm. Từ lúc gặp gỡ đầu tiên ấy, anh tìm hiểu qua lối xóm. Họ kể cho anh nghe số phận hẩm hiu long đong của tôi, tôi chỉ làm bé không có chồng chánh thức. Họ là người ngoại cuộc nên sáng suốt, có mắt nhận xét tinh tường và công bằng hơn. Dù đau lòng nhưng họ đã nói lên sự thật. Có lẽ vì thế mà anh muốn làm chiếc phao để vớt tôi lên, trước khi tôi bị chết đuối giữa dòng.
Anh gian nan đời lính
Tôi long đong tình trường
Tình Yêu không toan tính
Bởi đúng nghĩa yêu thương !
Định Mệnh đã đưa anh đến đây, và Định Mệnh đã cột tôi vào với anh bằng sợi dây oan nghiệt. Làm lính trong thời chiến, anh đã đi qua biết bao nẻo đường đất nước, gặp biết bao người con gái. Trong thời " trai thiếu, gái thừa " này mà anh lại chọn tôi. Bởi hai đứa có " duyên " nên " nghiệp lực " xui khiến mới gặp nhau.
Nâng niu anh nhặt cành hoa
Đã tàn từ thuở anh ra chiến trường
Dù tàn hoa vẫn ngát hương
Nâng niu anh giữ mà thương hoa tàn!
Anh trân trọng mở cửa "Tình Yêu ". Anh nhẹ nhàng bứng cụm hoa thôn dã đã tàn đem trồng vào mảnh đất tâm hồn một nơi cao quý nhất trong vườn tình ái. Thế giới Tình Yêu chỉ có anh và tôi, anh không ngần ngại nhổ đi đám cỏ dại qua đảo Cấm, để tìm đến cội " ô môi " cô đơn.
Gặp nhau chiều binh lửa
Chiều hành quân qua đây
Mới gặp nhau mấy bữa
Mà tình đã trao tay !
Tôi đã trãi qua Tình Yêu đầu đời, nó chỉ tồn tại không quá 2 mùa trăng. Nên tôi không biết đó là Tình Yêu hay chỉ lòng thương hại? Nó bị chặt đứt ngay khi chưa bén rễ, nên chưa đủ thời gian để đâm chồi nẩy lộc. Tôi vừa mới nhấp lên môi, chưa kịp nếm thử hương vị Tình Yêu nó ra sao, mà ngôn ngữ Tình Yêu là gì? Mà bao người đã luỵ vì nó. Đến đổi vì quá đau khổ, tuyệt vọng mà Lan phải cắt tóc đi tu.
Bao năm qua tôi bị bế tắc vì cho rằng cuộc đời này là vô nghĩa, và tôi sẽ không có cơ hội tìm được Tình Yêu chân thật, khi mà tôi bị ép phải sống không chính thức, mà chuyện vợ chồng như cái bình phong.
Mỉa mai hai chữ vợ chồng
Người trồng trái đắng trổ bông lưng giàn
Rừng chồi mọc lắm dây oan
Bên kia trái đắng chín vàng trên cây
Chuyện thoát ly bất thành, tôi bị gán là hư hỏng nên hắn trả về để má giáo dục lại. Tôi kiệt sức qua vụ tự tử hụt, thêm trận mưa đòn tàn nhẫn. Vết đau nhức nhối trên thân không đau bằng lời nhiếc mắng của má. Nó làm tim tôi rỉ máu, làm đầu tôi nhức nhối, như mũi kim xoáy vào xương tuỷ. Tôi cắn răng nghe nỗi đau như con vi trùng đang gậm nhấm từ từ trong từng thớ thịt, từng đốt xương. Một ý nghĩ bệnh hoạn chợt thoáng qua, phải chi mình " mù " thật thì sẽ đở khổ hơn, vì mình sẽ không nhìn thấy người mình khinh khi, thù ghét.
Phải chi đôi mắt ta mù
Để không nhìn thấy kẻ thù gần bên
Ước chi hận cũ ta quên
Để thôi đau nhức trái tim tật nguyền !
Tôi sống trong bất an,trong lừa dối, mà sự thật nói ra không ai tin, chẳng ai biết nỗi đau, nỗi nhục mà tôi phải chịu đựng. Tình cảm của tôi bị dồn ép không lối thoát, mà oán hận cứ âm ỉ chờ giờ bộc phát, chỉ đợi đúng thời kỳ nó sẽ nổ tung như ngọn núi lửa. Người đàn ông đó càng ngày càng cách xa, càng cảm thấy xa lạ. Tôi không biết hắn muốn gì? Bao quanh hắn là một sự " bí mật " mà tôi không thể khám phá ra.
Chính người lừa dối điêu ngoa
Đã đem sóng gió đưa qua chốn này
Cũng đành lỡ một lầm hai
Nỗi đau, nỗi nhục đắng cay riêng mình
ái nữ Kim Loan 1965
Nhìn con lớn lên với ngày tháng muộn phiền, với cô đơn tuyệt vọng. Những chiều buồn bế con bên bờ đất lở tôi ướt mắt đau thầm. Nhìn cánh chim vỗ cánh bay về núi mà mơ ước, mình có đôi cánh như chim, mình sẽ bay thật xa lìa cái tổ ấm này, vì nó không là tổ ấm, mà lạnh lẽo vô cùng!
Tôi càng ít nói hơn và nụ cười càng xa vắng, mắt tôi lúc nào cũng long lanh ướt lệ, nên đã làm trái tim anh rung động. Anh đã đọc được nỗi đau, nỗi khổ mà tôi phải chịu đựng.
Mắt em buồn quá chao ôi
Long lanh giọt lệ giam đời quạnh hiu
Em... người con gái tôi yêu
Mong manh như giọt sương chiều ngoài nương
Các người lính họ đóng bên ngoài nên ít vào nhà. Còn anh trong ban Quân Y đóng trong nhà, nên thường gặp nhau luôn. Con gái tôi được anh bồng ẩm, chăm sóc nâng niu, nên mặc sức nó vòi vĩnh, luôn miệng gọi " cậu Nhơn " một cách trìu mến. Nhìn con khắn khít với anh làm tôi quá đổi ngạc nhiên, vì không dễ gì nó thân thiện với người lạ. Một việc mà người cha ruột của nó không bao giờ có. Có nó anh làm quen với tôi không khó. Bế nó trên tay, anh nhìn tôi ngập ngừng :
-Tối ni... anh hẹn em được răng?
Tôi lắc đầu từ chối. Bỗng lời than thở của anh làm tôi mềm lòng:
-Mai anh đi rồi! Biết khi mô mình gặp nhau nữa!
Bốn năm... đã bốn năm qua
Tôi trong lồng hẹp xót xa phận mình
Bốn năm cay đắng chữ tình
Bốn năm câm nín lặng nhìn Xuân trôi...
Đã bốn năm qua, tôi như người mang bệnh câm, như con búp bê được người sai khiến bằng cái nút bấm. Thật ra tôi không muốn nói, vì lời nói bị bưng bít, bị cho là trịch thượng hỗn hào. Tôi như cái bóng méo mó trên vách ván rạn nứt, mà tinh thần luôn khủng hoảng. Những cơn ác mộng thường đến với tôi, cảnh dí súng, cảnh treo cổ, cảnh đòn bọng, cảnh chạy trốn cứ mãi ám ảnh.
Từ vụ tự tử hụt, thêm trận đòn chí tử, tôi tưởng mình đã sợ không dám liều lĩnh nữa. Nhưng... dù cố dằn nén, cái khát khao thoát ly vẫn nằm trong một chỗ thật sâu kín, chỉ chờ cơ hội là bừng dậy.
Với anh tôi sống những ngày
Đau thương, hận tủi đoạ đày tháng năm
Tương lai mù mịt tối tăm
Cánh hoa đồng nội âm thầm héo khô
Tôi nằm đếm thời gian phiền muộn đi qua, mấy lần ngồi nhỏm dậy rồi lại nằm xuống, biết anh đang nôn nao đợi mình nơi chỗ hẹn, nhưng... chẳng hiểu sao tôi lại phân vân? Chợt nhớ đến ánh mắt trầm buồn với lời than thở của anh. Tôi bước xuống đi nhật nhanh đến chỗ hẹn, sợ rằng mình sẽ đổi ý.Tôi điên vì Tình Yêu mất rồi!
Khi yêu xin chớ ngại ngần
Khi yêu dám chết nghìn lần vì yêu
Khi yêu cho hết thật nhiều
Mà sao chỉ nhận những điều đắng cay
Đêm đã quá khuya, từ vườn sau gió lùa vào thoang thoảng hương cau. Tim tôi đập liên hồi, nửa sợ má, nửa sợ chuyện phiêu lưu tình cảm. Anh kéo tôi ngồi xuống bên cạnh. Hướng mắt nhìn lên bầu trời, trăng đã lên cao lơ lững thấm vào vạn vật, vài đám mây trắng trôi lang thang trên nền trời chàm đậm.
Áo dù bụi bám đường xa
Chợt thương người lính Cộng Hoà chiều nay
Ngại ngùng chưa dám cầm tay
Say chàng trai ấy hay say cung đàn !
Tình Yêu thật mầu nhiệm, cả vũ trụ thênh thang rộng mở đón chờ hai đứa. Tình Yêu thật sự đã đến với tôi, tôi hân hoan đón nhận Tình Yêu. Tâm hồn tôi choáng ngập ước mơ, hy vọng le lói. Lòng cảm mến người lính Quân Y ấy, Tình Yêu nở rộn rả trong cánh hoa dù.
Một cánh dù đã mở
Giữa lưng trời quê hương
Đời thiên thần mũ đỏ
Hoa dù nở tình thương !
Anh không lợi dụng phút yếu mềm để hôn tôi, anh choàng tay qua vai tôi và xiết nhẹ, như sợ tôi quá mỏng manh mà tan ra mây khói, cử chỉ dịu dàng êm ái, vòng tay anh thật ấm làm tim tôi rạo rực. Bóng tối như đồng loã cho hai đứa đến gần nhau hơn.
Một Tình Yêu thật sự
Không tính toán bao giờ
Ngoài kia trăng tình tự
Trong này hoa ươm mơ !
Cả hai cùng im lặng, mặt đối mặt, mắt nhìn mắt, tay trong tay và tim trong tim. Trong sự im lặng ấy là sự cảm thông hoàn toàn. Bàn tay anh không tham lam thám hiểm vùng đất cấm, mà tay anh đan chặt từng ngón tay tôi, một cảm xúc thật lạ. Lần đầu tiên tôi thấy sự rung cảm chân thành, một Tình Yêu chính chắn thật sự, không bồng bột như thời tuổi trẻ. Chỉ nghe thấy nhịp tim cùng tần số thay thế những câu nói tình tự nhất.
Anh người trai mới lớn
Tôi thiếu phụ hai mươi
Đời anh buồn chưa gợn
Đời tôi sầu tả tơi...
Tôi đã lỡ yêu rồi chàng lính trẻ
Lòng thương thương mầu áo cánh hoa dù
Nghe tiếng súng anh thở dài bảo khẻ :
Quê hương mình tan tác tựa chiều Thu !
Tiếng súng tập trận từ xạ trường Vạn Kiếp vọng về, ánh hoả châu chợt loé lên rồi vụt tắt trong đêm tối. Mây giăng giăng, nàng Hằng Nga e thẹn lấp ló sau rèm mây, cả bầu trời lấp lánh nghìn... nghìn... triệu... triệu... ánh sao đêm. Một ánh sao băng chợt rơi nhanh vội vàng. Anh reo lên nho nhỏ:
-Tề một vì sao rụng đó tề ! Em thấy răng?
Đêm qua mười sáu trăng rằm
Trăng già nên mộng chẳng cầm được chi
Bỗng dưng ước muốn dị kỳ
Khi ta nhìn thấy một vì sao rơi...
Hai vì sao lạc chợt rơi vào mắt anh, trong đôi mắt ấy long lanh một ánh sáng dịu dàng, tình tứ lẫn đam mê. Trên đảo "cô đơn " thuyền tình vừa ghé lại, cánh hoa ô môi chợt hồi sinh nở muộn màng, nhưng lại đẹp hơn nàng hồng, nàng lan bên hàng xóm. Hai vì sao lạc chợt rơi xuống khu vườn hiu quạnh, ánh sáng thật dịu dàng thơ mộng, nó không đốt cháy như cơn nắng Hạ, không lạnh lẽo như mùa Đông xám, mà nó ấm áp như mùa Xuân mang cho tôi niềm tin và hy vọng. Tình Yêu đang hòa hợp anh lại với tôi, hoà hợp với tất cả vạn vật trên thế gian này. Bên anh tôi không còn sợ hãi mà dám dấn thân vào Tình Yêu.
Có hai vì sao lạc
Chợt rơi vào mắt anh
Một đời ta mất mát
Chút ân tình mong manh
Anh khẻ bảo:
-Mình gặp nhau hôm nay như mối duyên kỳ ngộ! Như tên hai đứa mình ghép lại "Dị Nhơn " nghe hay tuyệt! Anh hát bài hát ni tặng em! Lúc mô nghe bài hát ni! Em sẽ nhớ mãi kỷ niệm ngày chúng mình gặp gỡ!
Anh cất tiếng hát nho nhỏ
Trở lại chuyện hai chúng mình...
Khi anh với em vừa biết đam mê...Tình Yêu tràn trề...
Đường mòn đêm vắng bước chân em nhớ tên...
Giọng anh thật trầm ấm, trong bản nhạc " Con Đường Mang Tên Em " của Trúc Phương. Tôi bị lôi cuốn vào tiếng hát Liêu Trai của anh. Tiếng hát như đưa tôi vào một thế giới của Tình Yêu với vũ khúc nghê thường. Âm vang như chơi vơi thay cho lời tỏ tình, làm tim tôi xao xuyến bâng khuâng. Tiếng hát mầu nhiệm như những hạt mưa tình rơi xuống khu vườn đã từ lâu khô cằn vì thiếu nước. Như người đi trên sa mạc tìm được bóng cây cao, cái hơi ấm tinh khiết lan toả làm tim tôi mát dịu và cảm thấy thật bình an.
Mai này em nhé đừng quên
Con đường kỷ niệm mang tên em rồi
Mai nầy mỗi đứa một nơi
Anh đàn bài hát tặng người anh yêu
Từng giai điệu của hai con tim hoà nhập vào nhau, âm vang bài hát sao chơi vơi. Từng nhịp tim rung động khác thường, đầu óc tôi quay cuồng trong si mê, trong liều lĩnh, bao nhiêu chống đở bỗng tiêu tan. Ngước nhìn anh, tôi mơ hồ thấy bóng hạnh phúc đến thật gần, cái hạnh phúc nhỏ nhoi mà bao năm qua tôi ước mơ.
Hai vì sao lạc trong vườn
Thơm lừng phấn cám, trầm hương ngạt ngào
Đảo thần tiên chợt bước vào
Thiên Thai mở ngõ hoa chào Nguyễn, Lưu
Tiếng hát đã dứt mà hồn tôi bay bỗng nơi đâu, chợt giựt mình khi nghe anh hỏi:
-Đời em buồn lắm răng?
-Em chưa biết gì về anh! Mà anh cũng chưa biết gì về em! Mình mới quen nhau có mấy ngày! Sao anh biết là em buồn?
- Chính đôi mắt em đã nói lên điều đó! Anh đâu cần biết em là ai! Chỉ biết em là đủ rồi!
-Anh có biết cũng chẳng thay đổi được gì! Ngày mai anh đi rồi! Đem theo chuyện buồn để làm chi!
-Đời lính buồn nhiều rồi! Rứa có buồn thêm cũng chẳng răng mô!
Đêm nay sương bỗng rơi nhiều
Xa xa tiếng súng buồn hiu, đêm tàn
Chẳng mong tính chuyện đá vàng
Nhìn anh em bảo:- Lỡ làng còn đâu !
Một cảm xúc thật lạ. Một nửa của tôi mà từ lâu tìm kiếm đang hiện hữu bên tôi. Anh choàng qua vai tôi xiết nhẹ, như muốn chuyền thêm cho tôi nghị lực. Con tim tôi đã xé rào luân lý đi hoang.
Anh muốn đưa tôi tìm lại những mùa Xuân mà tôi đánh mất, tìm lại tiếng cười yêu đời đã từ lâu xa vắng. Anh muốn tôi nhìn đời bằng mầu xanh hy vọng, đời đáng yêu bởi có những tấm lòng yêu thương. Anh muốn tôi có niềm tin trong Tình Yêu lứa đôi. Trong thế giới Tình Yêu chỉ có anh và tôi.
Cái chân tình của anh làm tôi cảm động, nó tươi mát, nồng nàn và thiết tha. Tôi thật sự đã yêu anh trong một thời gian ngắn ngủi. Tôi không ngờ mình lại dễ dàng chấp nhận Tình Yêu anh trao mà không phân vân, không đắn đo suy tính. Mặc cho ngày mai có ra sao, dù gió mưa, bão nổi, dù lầm than gian nan. Có anh tôi can đảm đối đầu với bao nghịch cảnh.
Từ thuở em yêu anh
Ta về chung lối mộng
Thơ hết buồn đêm Dông
Ngày hết dài chờ mong
Người lính trẻ tôi yêu có tâm nhân từ độ lượng, lương tâm của người lính QuânY, đem thân mình ra phụng sự Tổ Quốc, không hèn hạ trốn tránh trách nhiệm của người trai trong thời chiến. Anh đi băng bó vết thương cho đồng đội chưa xong, lại còn quá tham lam muốn vá vết thương đời tôi.
Vết thương anh chữa cho người
Nhưng không chữa được cuộc đời đau thương
Anh đi vá lại quê hương
Nhưng không vá được chuyện buồn đời em
Tôi thấy bóng hạnh phúc đến thật gần trong tầm tay với, nhưng sao quá mong manh, không khéo sẽ tan như bóng mây, như ảo ảnh cuộc đời. Tôi phó mặc cho Định Mệnh đánh đổi tất cả để có anh. Tôi cần bờ vai anh để tựa, cần vòng tay ấm áp của anh chở che khi mùa Đông nghiệt ngả kéo đến. Con gái tôi cần tình thương của người cha mà từ lâu nó thiếu thốn.
Anh mang đến cho em mùa Xuân ấm
Trái tim yêu anh dâng tặng em rồi
Đường tình yêu trãi lụa là nhung gấm
Vương miện này hoàng hậu đã lên ngôi
Anh đã đáp ứng cái nhu cầu tôi đòi hỏi, chỉ mong một tấm chồng chính thức, dù nghèo nhưng thực sự có "nghĩa tình và chung thuỷ", không chút lọc lừa gian dối. Anh muốn thưa với má chuyện hai đứa và xin hỏi cưới, nhưng tôi thừa biết rằng người chẳng bao giờ chấp nhận, mà cho rằng con gái chỉ gả một lần thôi. Duyên may hay rủi thì cũng tại số phần đen đủi của tôi, phải cam tâm mà chịu cho hết kiếp.
-Em đã một lần thoát ly không thành! Suýt chút nữa là mất mạng! Hắn sẽ không tha cho em! Và má sẽ không bao giờ chấp nhận cho em bước đi bước nữa! Có lẽ suốt đời em phải sống trong cái địa ngục này!
Anh thở dài hết cách:
-Chừ em có dám trốn theo anh răng?
Tôi không trả lời mà hỏi lại anh:
-Anh đi hành quân nhiều nơi! Chắc cũng gặp nhiều người! Trong thời buổi trai thiếu gái thừa này! Sao anh lại chọn em?
Anh nịnh đầm nhưng thật có duyên:
-Thời buổi ni, có lẽ đàn ông thích những phụ nữ xinh đẹp hơn! Chính đôi mắt khoắc khoải sầu thăm thẳm như ri mần răng anh đi cho đành! Anh đã chết đuối trong mắt em rồi!
Tôi ngập ngừng:
-Nhưng mà... anh là trai mới lớn! em đã là thiếu phụ! Anh không sợ người đời biếm nhẻ! Bạn bè cười chê, đàm tiếu hay sao?
- Anh quan niệm Tình Yêu cần hoà hợp! Anh sống cho anh chớ không sống cho dư luận!
Tiếng tôi thật khẻ như lời than thở dấy sâu nỗi buồn vô tận:
-Em chẳng còn gì để cho anh! Yêu em anh sẽ chịu thiệt thòi! Em tự nhận mình không xứng đáng với Tình Yêu của anh!
Anh cầm tay tôi xiết nhẹ:
-Yêu em anh chấp nhận tất cả! Anh yêu cái tâm hồn cao đẹp của em! Với anh chuyện thể xác chỉ là vấn đề phụ! Tình Yêu đâu cần mặc cả! Anh chỉ cần em cho anh một Tình Yêu chân thành!
Tôi cười buồn:
-Mấy anh nhà binh gàn như cua! Em sợ sa ngả mà anh thì như con thiêu thân lao vào! Bộ anh hỗng sợ chết thiêu sao?
Anh khẩn khoản:
-Em đừng trả lời bây chừ!Hồi mô nghĩ kỷ hãy tìm anh! Dù đời lính nghèo nhưng anh có thể bảo bọc em và con! Anh hứa sẽ yêu thương con em như chính con anh vậy!
Tựa đầu vào vai anh, tôi lắng nghe tiếng súng xa xa... Anh khẻ thở dài:
-Đời chinh nhân rày đây mai đó! Mai tê anh đi rồi em có buồn răng?
Cầm tay anh hỏi em ơi
Buồn chăng mai sáng anh rời nơi đây
Chúng mình còn mỗi đêm nay
Đời anh là lính tháng ngày lên đênh...
Tôi khẻ gật đầu mà nghẹn ngào trong nước mắt. Anh cho tôi một Tình Yêu chân thật không vụ lợi toan tính, một Tình Yêu thánh thiện. Nhưng... tôi cảm thấy quá mong manh, Tình Yêu vừa chớm chợt bế tắc. Tiếng gió lay động hàng dừa như lời than thở của tôi, của quê hương đang tả tơi giữa mùa chinh chiến.
Anh đi theo nước về đâu ?
Một đời sông núi gánh sầu em mang
Trong cái xã hội quá trọng đạo đức này làm sao tôi dám vượt qua. Đã bao thế hệ, có mấy người dám đi ngược lại cái thành kiến thủ cựu. Tôi quá mệt mỏi vì mãi đi tìm một sự thật chưa ra. Tâm trí tôi miên man ngược dòng quá khứ. Đã một lần vượt ngục bất thành, hậu quả của bài học "tự do ",tôi phải trả bằng roi vọt mà suýt nữa bằng sinh mạng. Ngoài kia tương lai đầy bất trắc sẽ chờ đón mà hậu quả khó lường trước được.
Tương lai đầy bất trắc
Hậu quả sẽ không lường
Giá tự do quá đắc
Trả bằng máu bằng xương
Hai đứa bịn rịn chia tay, luyến tiếc phút giây tạ từ ngắn ngủi. Anh ấu yếm cầm tay tôi dặn dò:
-Em nhớ hỉ! Anh chờ em !
Cánh quân vừa rút đi rồi
Nhìn nhau chẳng nói được lời chia tay
Hoa dù bỗng vướng trời mây
Một lần gặp gỡ thương hoài nhìn năm !
Những chiếc ba lô nặng trĩu, những túi cứu thương đầy vung, đoàn quân chuẩn bị lên đường. Riêng anh, chiếc ba lô bỗng nặng hơn hôm trước vì chở thêm tình tôi trong đó. Má đứng đấy nên anh chỉ dám nhìn tôi buồn bã, ánh mắt thầm nói câu giã biệt! Con gái tôi chạy đến ôm chân anh. Anh bế nó lên, đặt lên má nó chiếc hôn nhẹ và nói như nhắn nhủ:
-Cậu đi rồi bé Loan ở nhà phải ngoan và nghe lời mẹ hỉ! Đừng làm mẹ buồn mẹ khóc cậu không có ở đây mà dổ! Ngoan cậu thương mai mốt có phép cậu về thăm hỉ!
Con bé cứ bá cổ anh không chịu buông tay, mà đôi mắt đỏ hoe sắp khóc. Anh trao nó lại cho tôi, lợi dụng phút giây ngắn ngủi ấy, anh nhét miếng giấy ghi địa chỉ vào tay tôi thì thầm :
-Anh mãi mãi yêu em với tất cả chân tình!
Người đi bỏ lại nơi này
Khung trời kỷ niệm đôi ngày quen nhau
Trên xe anh vẫy tay chào
Đoàn xe dần khuất nghẹn ngào tình xa...
Tôi bế con dỗ dành, nó úp mặt trên vai tôi thút thít khóc. Cảnh tiễn đưa như người vợ đưa chồng đi lính miền xa. Trên xe anh chồm ra đưa tay vẫy. Tôi bế con buồn bã nhìn theo đoàn xe từ từ khuất, lòng lo âu cho cánh hoa dù tôi yêu đã chuyến hướng vút bay. Hoa dù sẽ không đáp xuống chốn bình yên, mà sẽ đáp xuống những vùng binh lửa.
Một cánh dù chuyển hướng
Gió vun vút trong mây
Cánh chim hồn vay mượn
Hoa dù, hoa dù bay....
Anh đi rồi, mang cả hồn tôi vào trong chiếc ba lô ấy, để lại đây những đêm dài nhớ nhung vằng vặt. Chiều chiều tôi hay cùng con ngồi ngay chỗ hò hẹn đêm nào, im lìm như nho tượng " Hòn vọng phu " trông chồng. Lòng tôi buồn hiu hắt trông về dãy núi xa xa... Tôi ôm thật chặt con trong vòng tay mình, nó bá cổ tôi thỏ thẻ :
-Má nhớ cậu Nhơn phải không?
Tôi khẻ gật đầu:
Hôn vào má tôi nó bảo:
-Má đừng có buồn! Cậu Nhơn không thích má buồn đâu! Cậu hứa mai mốt có phép cậu về thăm mình! Cậu bảo con phải bảo vệ má đừng để người ta ăn hiếp má!
-Cậu Nhơn còn nói gì nữa!
-Cậu nói má bị ép buột, má không có tự do , không có hạnh phúc! Cậu sẽ đem má ra khỏi cái địa ngục này! Cậu hứa sẽ không để má với con phải khổ nữa!
Trên đỉnh núi Dinh, cây thập tự giá chiều nay bỗng vướng vít buồn! Chỗ cũ còn đây mà người lính trẻ giờ biền biệt nơi nao? Sao mương nắng vàng đọng trên lúa, nắng vướng trên cành cây ô môi khẳng khiu, nắng lọt qua khung cửa sổ buồn vời vợi...
Thanh Hiền-Kim Loan(Nina Kim)
Đêm qua Biển Nhớ ngẩn ngơ
Ngồi nghe sóng vỗ mà mơ đến chàng
Sương rơi, gió cuốn, mây tan...
Thấy lòng xa vắng trăm ngàn nhớ thương!
Tình Yêu làm tôi mất ăn bỏ ngủ, nhưng Tình Yêu cũng cho tôi nuôi hy vọng. Thời gian xa nhau là một thử thách, để tôi hỏi lại tim mình có thật yêu anh không? Có dám liều lĩnh bước vào thế giới Tình Yêu đầy phong ba bão tố! Tôi hỏi gió, tôi hỏi trăng làm sao cho tôi trọn ước mơ.
Tình yêu tiếng gọi thiết tha
Vườn hồng mở cửa bướm hoa kết tình
Băng khoăn hỏi lại tim mình
Yêu người dù có trăm nghìn nỗi đau !
Cũng vì lòng gian dối, lừa gạt làm tôi tức tối, thêm cái mặc cảm " làm bé " cứ đè nặng tâm tư, mà cái phong tục lễ giáo nó bám từ đời ông, đời cha, làm sao tôi dám chối bỏ khi chưa được " lệnh " của má.Tôi suy nghĩ từng đêm, cuộc chiến nội tâm đang dằng co cấu xé nhau dữ dội. Tôi ray rức đau khổ giữa chữ "hiếu, tình và bổn phận ". Hình ảnh của con, của Nhơn cứ quay cuồng trong trí, mình sẽ giải quyết sau đây? Tôi không thể đem tình cảm lên bàn cân để xem bên nào chênh, bên nào lệch.
Hiếu tình biết liệu làm sao
Nửa bên cấu xé, nửa đau đớn lòng
Nghĩ đến lúc phải bỏ con ra đi lòng người mẹ như ai cầm dao mà cắt! Nghĩ đến lúc mình bị xã hội nguyền rủa, rẻ khinh, bị láng giềng chê trách làm tôi chùn bước. Còn ở lại, tôi sẽ chết dần mòn trong ngục tù nô lệ tình dục này. Trí tôi chống đở bởi mặc cảm tội lỗi, còn con tim thì liều lĩnh bởi sự quyến rũ mãnh liệt của Tình Yêu.
Nằm nghe ong bướm bảo nhau
Kiếp này đừng hẹn kiếp sau làm gì
Bận lòng chi tiếng thị phi
Một lần lầm lỡ tình đi chẳng về
Tuổi thanh xuân của tôi cô đơn không có bạn, giam mình trong đảo Cấm quạnh hiu. Tôi khao khát vùng trời tự do, nhìn hạnh phúc của thiên hạ như kẻ đói nhìn cái bánh vẽ. Đã bốn năm qua, tôi chịu đựng một cuộc hôn nhân tạm bợ không vừa ý, cái ý tưởng thoát ly cứ lẩn quẩn trong đầu. Mình không thể chôn vùi cuộc đời còn lại trong cái " địa ngục " ác nghiệt này. Dù tôi cố đè nén, nhưng cái khát khao một bến bờ hạnh phúc vẫn âm ỉ trong tim.
Bốn năm khao khát tự do
Nhìn người hạnh phúc mà mơ gặp chàng
Tình đầu thôi đã dở dang
Ghi vào nhật ký toàn trang thơ buồn !
Đã một lần tôi phụ Lang với Tình Yêu đầu đời, mà " Tình yêu chân thật " không đến lần thứ hai. Biết mình không thể thiếu anh, sẽ hối tiếc sau này. Nếu chần chờ đợi ngày mai thì đã muộn. Mình sẽ chết dần mòn như con chim quốc lẻ bạn kia. Chẳng thà sống một ngày với người mình yêu, hơn là trọn kiếp bên người mình khinh khi, thù ghét.
Một đêm dựa gối Quân vương
Còn hơn suốt kiếp bên phường thất phu.
Ái tình là mật ngọt, hay là trái đắng mà tôi như con thiêu thân cứ lăn xả vào. Tôi đánh đổi tất cả danh dự để theo anh, theo tiếng gọi Tình Yêu. Tôi muốn theo anh đi thật xa... ra khỏi cái khuôn khổ ràng buộc của gia đình, xa căn nhà mà tôi đã chịu nhiều ô nhục. Nơi tôi có mẹ mà như không. Nơi tôi bị đối xử như " con vật ". Bị hành hạ từ thể xác đến tinh thần .
Theo anh uống nước thượng nguồn
Uống vầng trăng rụng uống muôn sao trời
Đã gần 4 năm qua, tôi âm thầm đi bến hắn như cái bóng, niềm vui của tôi đã bị khoá kín, mà cái chìa khoá hắn đã vất vào một xó xỉnh nào đó. Định Mệnh khiến xui Nhơn nhặt được cái chìa khoá ấy. Anh trân trọng mở cửa Tình Yêu, anh cho tôi nụ cười tin yêu đã từ lâu xa vắng. Tôi mơ một chân trời mới hai đứa vĩnh viễn có nhau, trong trí tưởng tượng vẽ với ra ngôi nhà hạnh phúc, với tình vợ chồng ấm êm, mà mình sẽ là người vợ hiền gắn bó thuỷ chung.
Yêu người sóng cuộn tình quê
Trăng nằm thao thức đam mê qua đời
Yêu người cho cả đời tôi
Nghe mình khao khát vành môi ngọt ngào
Tôi như đứa trẻ nít thèm viên kẹo ngọt, mà không biết cái nhân đắng bên trong. Cay đắng tôi đã nếm qua, nhưng... vẫn chưa tởn mà còn muốn nếm cái thôi vị ngọt bùi của hạnh phúc. Từ lâu tôi nghĩ trái tim mình nguội lạnh cho đến khi gặp Nhơn. Có anh tôi không sợ vấp ngả, không còn đơn độc trên trường đời. Tôi mạnh dạn bước vào dòng đời luân chuyển, chính Tình Yêu của anh làm tôi mạnh bước.
Anh cho tôi nghị lực
Anh cho tôi niềm tin
Đời thực hư... hư thực
Anh trân trọng với tình
Sự phản bội nó không khởi xướng từ lúc tôi gặp Nhơn, mà nó bắt nguồn từ sự ghen tương vô cớ, mà tội ngoại tình tưởng tượng hắn nhét vào đầu tôi. Từ lúc hắn không thừa nhận đứa con, mỗi ngày lời vu khống đó bám gốc, mọc rễ, nó trở thành "ý nghiệp". Chính nguyên nhân đó dồn tôi tới đường cùng, tôi không còn chịu đựng nổi căn nhà tù vô hình do má dựng ra, mà cái lò luyện thép đã để lại những vết sẹo trên da.
Ra khỏi lò luyện thép
Thịt xương cũng rã rời
Sắt kia còn chịu phép
Huống chi số phận người
Tình cờ Nhơn đến thật đúng lúc, chính Tình Yêu của anh đã cho tôi thêm nghị lực, cho tôi thêm can đảm để xé rào đi hoang! Mình liều lĩnh quá! nhiều khi tôi không hiểu nỗi mình. Dù rất sợ má, sợ hắn, sợ những trận đòn tàn bạo! Nhưng tôi vẫn mơ ước, khát vọng một người chồng chánh thức đúng nghĩa. cái mơ ước của tôi thât tầm thường như phần đông phụ nữ, chỉ mong có một tấm chồng, dù nghèo nhưng thực sự có " nghĩa tình " không lọc lừa, gian dối.
Tôi cần bờ vai anh để tựa, cần vòng tay anh chở che. Con gái tôi cần tình thương yêu của người cha, mà tôi tin tưởng anh sẽ cho nó những cái thiếu thốn đó. Chỉ một thời gian ngắn anh đã chinh phục nó dễ dàng, tình cảm bắt đầu nẩy nở. Chính cái đau đớn của những trận đòn đã " thức tỉnh " tôi bước lại gần anh hơn. Có phải đây là con đường " tội lỗi " mà má thường lên án?
Một khi chim đã sổ lồng
Dù cho rã cánh quyết lòng tìm nhau
Dù mai đời có ra sao
Đắng cay cam chịu khổ đau cũng đành
Tôi lại nghĩ đến má, vận mệnh của tôi do má nắm lấy, và bắt tôi làm những điều trái với lương tâm, và tôi đã phải vâng lời. Tại sao ta không thể " làm chủ cho vận mệnh của mình? ". Tôi thấy mình bình tỉnh lạ thường, vì không sợ má từ bỏ nữa, mà chính mình sẽ từ bỏ gia đình này. Tôi đã chọn cho mình một lối rẻ quan trọng. Có phải mình nông nổi? Cũng mặc! Tôi điên mất rồi!
Đối với anh Tám Búp, người anh kính yêu nhất, tôi cũng chưa lần thố lộ những chuyện bí mật giữa má và tôi. Vì anh là người con hiếu thảo, hãy để anh giữ trọn lòng kính trọng bậc sanh thành. Dù tôi không gửi gấm con tôi lại cho anh, nhưng tôi biết anh luôn thương yêu săn sóc nó khi tôi vắng mặt. Tôi không cho anh biết ý định thoát ly, vì tôi thừa biết anh sẽ ngăn cản, bởi lúc nào anh cũng sợ làm má buồn. Tôi " dối " má đi Sài gòn tìm hắn, má tin ngay không một chút nghi ngờ.
Bảy Ngày Hạnh Phúc
Bảy ngày hạnh phúc đong đưa
Anh về thì đã quá thừa gối chăn
Bảy ngày tình bỗng cách ngăn
Em đi để lại vành khăn tang buồn !
Tôi trút tất cả chuyện đau thương tủi nhục lại sau lưng, mà nhìn về phía trước. Vườn hạnh phúc đang mở cửa đợi chờ, dù muộn màng nhưng Tình Yêu chân thành như cơn mưa đầu mùa, sẽ đưa tôi về với tuổi Xuân còn thơm mùi nắng Hạ, có bài tình ca bên giòng sông Dinh trầm lặng hiền hoà. Nơi đó chỉ có anh và tôi, tắm chung một giòng sông yêu thương, uống chung bát nước ân tình, mà mùa Đông khốn khổ sẽ ngủ yên một giấc ngủ dài triền miên. Nơi đó có một người tình đang chờ đợi tôi với vòng tay ấm áp, với lời thương hương tiếc ngọc. Anh sẽ đón tôi vào mộng, có vầng trăng thề nguyện câu đá vàng trăm năm.
Mùa Đông u ám đã qua
Còn đây Xuân thắm mặn mà trao duyên
Đưa em đi khắp mọi miền
Có anh bên cạnh phỉ nguyền ước mơ
Biết bao nhiêu goá phụ trẻ ngày càng tăng khi chiến tranh bừng phát. Tôi như người vợ trẻ dặm ngàn tìm chồng, dù ngoài kia đạn lạc tên bay, dù phải đi trên những tử lộ đầy xác người. Tình Yêu làm tôi mạnh bước. Tôi liều lĩnh đi tìm Nhơn, dù phải lên non xuống biển, không nài mưa nắng, không sợ gian nan. Tôi đi tìm anh giữa chốn ba quân, cứ lo sợ vẫn vơ, khi súng đạn vô tình cướp mất đi người yêu dấu!
Tìm anh vượt suối băng ngàn
Đắng cay em chịu theo chàng về xa
Đường tình thảm trãi đầy hoa
Nắng hồng trên má đậm đà thêm duyên
Với Nguyên Sa, nắng Sài gòn chợt mát bởi nàng mặc áo lụa Hà Đông. Với tôi nắng Sàigòn chợt nóng vì cơn lốc Tình Yêu thổi đến, chẳng biết cơn lốc lên cao đến độ nào? Nó sẽ cuốn tôi đến đâu? Lên đến tuyệt đỉnh hạnh phúc hay xuống tận cùng đáy vực khổ đau?
Tôi không dám nghĩ đến " hậu quả ". Cũng liều !Mình mù quáng thật rồi! Khi mà con chim đã " sổ lồng " , nó sãi cánh bay giữa khung trời rộng. Chim không ngại nắng, ngại mưa, bay tìm nhau cho đến khi rã cánh cũng đành, nhưng tôi lại lo âu vì sợ anh xem thường. Tôi đang đứng trước ngã ba " Định Mệnh ", đã lỡ bước đi là không bao giờ quay lại. Tôi phủ phàng quá chăng, khi xem Tình yêu nặng hơn chữ hiếu.
Tình yêu là mật ngọt
Hay toàn trái đắng lòng
Đường tình ta nhẹ gót
Hai đứa mình song song...
Con đường Trương Minh Giảng nhẹ đón chân tôi, cầm miếng giấy ghi địa chỉ của anh để lại, không khó khăn lắm tôi tìm được nhà bà chị của anh. Khi nghe tôi nói tôi từ Bà Rịa đến, chị reo lên vồn vả:
-Hắn về từ chiều hôm tê! Bảo đang dừng quân trên Bà Quẹo! Hôm ni biết còn chỗ nớ răng? Hắn dặn khi mô o lên thì lo dùm!
Thấy Bà Quẹo cũng gần, tôi muốn đến đó nên hỏi ý kiến chị, chị nhanh nhẫu:
-Chị nghĩ không răng mô! Rứa không gặp hắn thì o trở lại đây hỉ! Độ ni hắn đi hành quân miết nên chi lo lắm! Răng chừ o đi!
Tôi thấy còn sớm nên xin phép chị đi ngay, chị bảo tôi vào rửa mặt rồi dùng cơm hẳn đi. Tôi cảm ơn chị, chị nhìn tôi đầy thiện cảm:
-Ân nghĩa chi mô!
Đánh lên một lớp phấn nhẹ, kẻ mí mắt và tô chút môi son, chải lại mái tóc. Nhìn vào gương, thấy mình tươi mát trong cái áo dài màu lam ngọc. Tình Yêu làm tôi đẹp ra. Chị tiễn tôi ra cửa dặn vói theo:
-Nhớ hỉ! Hồi mô tìm không gặp hắn thì o trở lại đây hỉ!
Sự săn đón của chị làm tôi cảm động, mà Tình Yêu của anh như thúc giục tôi dấn bước phiêu lưu. Xe qua cống Bà Xếp, gần chợ Hoà Hưng vài cây số tới chợ ông Tạ, nơi có tiếng bán thịt chó. Chiếc xe lam đưa tôi qua Bảy Hiền, ranh giới đô thành nơi bến xe về Tây Ninh, Gò Dầu, nơi vườn Tao Ngộ của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Từ ngả ba quốc lộ vào vài cây số, gặp một ngả ba nữa mới vào Bà Quẹo.
Yêu người ta thấy mùa Xuân
Đang về trên mắt nghe thân buột ràng
Yêu người ta hết lầm than
Mặt trời chợt hé làm tan mây mờ
Mấy tháng xa vắng bao thương nhớ ngập lòng, con đường đất đưa tôi gặp lại người thương. Mái tranh hiền hoà ẩn hiện sau mấy vuôn tre, mấy hàng dừa, lòng rộn rã khi thấy thấp thoáng bóng người lính dù. Hình như mùa Xuân về đâu đó, bầu trời bỗng xanh hơn, chùm hoa dại bỗng mĩm cười trong nắng, vệt nắng cuối ngày làm rực rỡ thêm chiếc mũ đỏ thiên thần.
Yêu người ta thấy trời thơ
Trên cành chim hót rừng mơ hoa cười
Yêu người hoa héo chợt tươi
Trong vườn ong bướm rong chơi quên về
Hình như vũ trụ đang hân hoan chào đón tôi đến với Tình Yêu. Nắng thật ấm áp, óng ả bên bờ dậu biếc. cả cỏ cây chim chóc đều đến vũ hội. Đôi tà áo dài lam ngọc như cánh bướm lã lơi trong chiều tà. Một cảm giác lâng lâng thật hạnh phúc, như vừa tìm được ánh sáng mặt trời sau những ngày u ám.
Theo chân người lính, đôi chân tôi ngượng ngập vì nhiều ánh mắt tò mò nhìn. Phút giây mong chờ đã đến, phút giây tái ngộ, quá xúc động anh mở to mắt nhìn tôi, anh ngẩn ngơ không tin là sự thật, vì tôi không là thiếu phụ âu sầu buồn bã ngày nào, mà là một thiếu phụ xinh đẹp duyên dáng yêu đời. Trong một khoảnh khắc thật mơ hồ, cảnh vật như chìm hẳn, chỉ còn nghe tiếng đập rộn rã của đôi tim. Qua phút giây bàng hoàng, anh đở nhẹ hành lý cười hân hoan:
-Anh đang tỉnh hay mơ! Bữa ni trông em lạ hơn bữa nớ!
Niềm vui chợt thoáng qua mắt anh:
-Rứa con có nhắc anh răng?
Anh âu yếm cầm tay tôi khẻ hỏi:
-Răng chừ em ở lại với anh đêm nay hỉ? Mai anh xin phép về lo chỗ ở cho em! Em bằng lòng răng?
-Được anh yêu là một diễm phúc! Em chỉ sợ... làm anh thất vọng!
-Anh nói thiệt rứa! Anh hiểu hoàn cảnh đáng thương của em! Đời em quá gian truân xứng đáng được đền bù! Đời anh lính nghèo như ri chẳng có gì cho em ngoài Tình Yêu chân thành!
Yêu người sóng cuộn tình quê
Trăng nằm thao thức đam mê qua đời
Yêu người cho cả đời tôi
Nghe mình khao khát vành môi ngọt ngào
Niềm vui chợt thoáng qua mắt anh, ánh mắt đó đã cho tôi một trời hạnh phúc, đã đưa tôi qua giòng sông mặc cảm tội tình. Tôi không dự đoán được hạnh phúc mình đang có sẽ tồn tại bao lâu, một tháng, một năm, hay suốt cuộc đời?
Nằm chung nệm đất đêm nay
Uống chung bát nước mình say mộng lành
Cảm ơn xin cảm ơn anh
Một đêm hạnh phúc ta dành cho nhau
Tiểu đoàn trên đường hành quân, kỷ luật nghiêm khắc, thế mà bác sĩ Quân Y Trưởng đã dành một cảm tình đặc biệt, đã thông cảm cho tôi được ở lại đêm đó. Chúng tôi yêu nhau, nên duyên gắn bó, chẳng có lễ hỏi, lễ cưới. Đêm động phòng trong căn nhà tranh ở Bà Quẹo. Với cái mùng nhà binh, nệm bằng đất. Thân thể nóng bỏng của anh làm mền, cánh tay anh làm gối , mà rượu giao bôi là những nụ hôn nóng bỏng đam mê. Anh nhẹ nhàng đưa tay đở lấy thân tôi, như sợ thương tổn đến cánh hoa tàn úa bởi mưa gió vô tình, như giọt sương mai quá mong manh chỉ sợ sẽ tan biến khi chạm vào. Tôi vùi vào ngực anh mà nghe đời hạnh phúc.
Đêm nay tái ngộ cùng chàng
Tay anh làm gối tóc đan tơ tình
Tình yêu mầu nhiệm hồi sinh
Đôi môi nồng ấm chúng mình tìm nhau
Anh thì thầm bên tai:
- Xin phép em cho anh yêu em đêm nay hỉ! Kể từ đêm nay em đã là vợ của anh!
Tôi quên hết nghịch cảnh, quên hết thời gian, vứt đi niềm đau thương hận tủi, vứt hết bao vất vã long đong. Anh không có cử chỉ thô bạo mà trân trọng nhẹ nhàng, đưa tôi lên tuyệt đỉnh yêu đương. Chính sự mầu nhiệm của Tình Yêu đã biến tôi thành con người khác. Tôi không còn là gỗ đá. Anh không chiếm đoạt, không tham lam đòi hỏi mà tự tôi hiến dâng.
Mong đêm đừng có qua nhanh
Để vòng tay ấm dỗ dành người thương
Đưa em lên đỉnh yêu đương
Em là Hoàng Hậu, Quân Vương say tình
Với anh khi mà Tình Yêu dâng hiến vẫn giữ nguyên vẹn, như giòng sông kia mãi trôi chảy vào đại dương mênh mông. Hai đứa trầm mình vào giòng sông Định Mệnh, tìm về cội nguồn hạnh phúc. Lắng nghe tiếng hát tình tự của sông, tiếng ru ngọt ngào của suối, lời yêu thương thắm thiết của biển, có anh tôi không sợ chết đuối giữa dòng.
Đêm nay quên hết thương đau
Mừng đêm tái ngộ em trao cuộc đời
Ngoài kia mưa bão tan rồi
Có chàng bên cạnh ru lời ái ân
Chính Tình Yêu chân tình của anh đã kết hợp hai đứa lại với nhau. Mà Tình Yêu chân thật không ai lợi dụng ai, không chiếm hữu mà đồng chia sẽ hạnh phúc. Giai điệu Tình Yêu không xuất phác bằng lời nói mà bằng sự im lặng đồng điệu, cảm thông và hoà nhập.Tình Yêu như một làn sinh khí, đôi môi khô khan trở thành mật ngọt, đám mây u ám lạnh băng của mùa Đông đã biến mất nhường lại cho mùa Xuân với hạnh phúc tràn trề. Cây nhủ mầm xanh biếc trang điểm cho đời thêm ý sống. Khu vườn Tình Yêu hoa bướm như mời mọc.
Chiều buồn mưa bỗng rơi mau
Khói sương bãng lãng tình trao ân cần
Vì chàng ta dám liều thân
Vì tình ta dám trầm luân vì tình
Trên con đường tình đầy hoa thơm cỏ lạ, anh nhẹ nhàng dìu bước chân tôi, hai đứa song hành bước vào thiên đường hạnh phúc. Nắng ấm áp dịu dàng, như quấn quít hai đứa với nhau. Lần đầu tiên tôi "ngoại tình" lần đầu tiên với người đàn ông khác. Lần đầu tiên biết yêu thật, và cũng là lần đầu tiên tôi "dám sống "cho mình.
Em người con gái tôi thương
Vứt đi hận tủi đoạn trường đã qua
Em như một hạt mưa sa
Rơi trên áo trận áo hoa bạc mầu
Dù anh là kẻ đến sau, nhưng là người thứ nhất, tôi cho anh tất cả, từ thân xác, tâm hồn, con tim tan vỡ và cuộc đời còn lại. Trên pháp lý và trong tim, tôi chưa bao giờ thừa nhận hắn là chồng, nên tôi không cảm thấy mình phạm tội. Tôi không hối hận đã theo anh, tôi dám vì anh dối má và chấp nhận sự từ bỏ của gia đình, luôn cái bản án khắc khe của dư luận.
Tình em... em đã cho không
Chỉ mình anh nhé tiếng lòng! Ôi yêu
Cuối đời còn được bao nhiêu
Nên không đòi hỏi chi nhiều thưa anh!
Anh trân trọng, bứng cụm hoa thôn dã đã tàn, đem về trồng một nơi cao quý trong vườn tình ái. Anh không đem Tình Yêu lên bàn cân để toan tính, đòi hỏi. Một đêm với hạnh phúc đam mê, giây phút đẹp tuyệt vời nhất trong đời.
Mưa qua vùng đất khô cằn
Đã bao năm tháng nhục nhằn hờn đau
Mưa về cỏ úa lao xao
Mấy bông hoa dại bên rào chợt tươi
Anh là dòng suối ngọt ngào cho tôi nhựa sống, anh là cơn mưa đã rưới cho tôi những giọt nước hồi sinh sau những năm dài chết dở. Anh đã cho tôi nếm chất mật ngọt của Tình Yêu dâng hiến, đẹp hơn bài thơ tình ái, không giọt nước mắt tủi hờn.
Cảm ơn xin cảm ơn người
Cho môi em ngọt cho đời em tươi
Cho em nở một nụ cười
Cho tim hết lạnh hát lời ái ân
Dịu dàng trân trọng đở nâng
Đưa tôi qua nẻo đường trần bình yên
Sau cơn mưa tình, khu vườn đã từ lâu khô cằn, cỏ bỗng xanh, hoa chợt tươi sau trận mưa rào. Cánh bướm lạ chiều nay dừng bước giang hồ, bởi lòng chợt thương tiếc cánh hoa dại trong vườn. Giọng ru trầm ấm của anh, ru tôi vào giấc ngủ mê say, có đầy hoa thơm tình ái. Tiếng ru như xoa dịu nỗi đau thương mà bao năm qua giết mòn tuổi thanh xuân.
Ru em tiếng hát ngọt ngào
Bích Câu vườn mộng lối vào Thiên Thai
Em ơi chớ sợ đêm dài
Gạt sầu em nhé hãy say giấc nồng
Hơn 4 năm qua, tôi cô đơn trên lộ trình dài đăng đẳng, qua bao vùi dập phủ phàng, qua bao sóng gió. Con thuyền đã tìm được bến bình yên. Tôi không còn mặc cảm mình là con vịt đẹt xấu xí mà là nàng thiên nga trong trắng duyên dáng. Sổ đời vừa sang trang hạnh phúc.
Với anh tôi vẫn còn Xuân
Tình tôi trong trắng ái ân vẫn nồng
Với anh tính chuyện vợ chồng
Má tôi vẫn thắm thơm nồng môi hôn
Anh đã đáp ứng cái nhu cầu tôi đang thiếu thốn, bên anh tôi cảm thấy an toàn, và sự quan tâm chăm sóc mà tôi chẳng bao giờ có. Chưa bao giờ có người chồng thực sự, thì nói chi là hạnh phúc. Tôi bị ép buộc phải sống với kẻ mình thù hận, thì thật là một địa ngục trần gian. Tôi phủi đi cái mặc cảm là kẻ phạm tội luôn trĩu nặng tâm tư. Tôi đã trưởng thành, và nhận thức được hành động liều lĩnh của mình.
Cảm ơn xin cảm ơn chàng
Bỏ công lặn lội dặm đàng tìm anh
Đêm nay yên giấc mộng lành
Tình yêu vĩnh cữu chân thành anh trao
Anh trân trọng đở nâng đưa tôi vào cõi bình yên, cho tôi một cơ hội làm lại cuộc đời sau những thăng trầm dâu bể. Tiếng anh âu yếm như rót mật vào tim:
-Giông bão đã qua! Chặng đường lầm than cũng đã qua! Em hãy xem như cơn ác mộng! Em yêu hãy ngủ! Anh ru em vào giấc ngủ bình yên! Đêm ni mình đã có nhau!
Ru em tiếng hát chơi vơi
Khồ đau đã hết vì đời có anh
Ru em nước mắt long lanh
Anh lau dòng lệ chảy quanh má đào
Anh xiết chặt tôi trong vòng tay yêu thương thì thầm:
-Em yêu! Xin cảm ơn em đã chọn anh! Xin cảm ơn em một đêm mặn nồng tình chăn gối! Cảm ơn em những giây phút tuyệt vời! Cảm ơn em đã ghé qua đời anh! Lúc mô, khi mô anh mãi mãi yêu em suốt cả cuộc đời!
Với anh tình chấp nối
Nghe đời lên men cay
Cánh tay anh làm gối
Ôi thiên đường là đây!
Tôi vùi vào ngực anh hỏi khẻ:
-Em hiến dâng cho anh tất cả! Anh có khinh em không?
Anh đặt lên môi tôi một nụ hôn đắm đuối, giọng hờn dỗi:
-Mần răng mà em cứ mặc cảm mãi rứa! Từ hôm ni em đã là vợ của anh! Cũng vì hoàn cảnh không có tiệc cưới! Anh xin lỗi đã để em chịu thiệt thòi! Anh yêu em từ cái đẹp của tâm hồn! Với anh em như cánh sen trong bùn vẫn trong trắng tinh anh!
Khi yêu xin chớ ngại ngần
Khi yêu dám chết nghìn lần vì yêu
Khi yêu cho hết thật nhiều
Lội trăm biển khổ cũng liều vì anh!
Bàn tay anh luồn vào tóc tôi,chập chờn tóc đan vào nhau mê cuồng thích thú, lẫn khuất trong màn đêm gã gió chừng ganh tị rít lên làm tôi sợ hãi. Tưởng tượng bóng ma của hắn cứ bám theo không rời, mơ hồ cảnh đánh đập, hành hạ làm toàn thân tôi nhói đau, nghe mằn mặn trên môi. Anh sẽ hỏi:
-Em hối hận răng?
Tôi lắc đầu:
-Chẳng bao giờ! Em chỉ sợ...
Tôi bỏ lửng câu nói. Anh hôn lên đôi mắt đẫm lệ của tôi âu yếm:
-Kể từ hôm ni đôi mắt sầu muộn này những hạt lệ tủi hờn xin đừng rơi nữa! Chặng đường tương lai đã có anh! Đau thương xin hãy cho vào quá khứ!
Tôi vùi vào ngực anh nũng nịu:
-Xin cảm ơn tình yêu anh đã cho em!
Cảm ơn xin cảm ơn người
Cho môi em ngọt cho đời em tươi
Cho em nở một nụ cười
Cho tim hết lạnh hát lời ái ân
Cảm ơn tình ấy ân cần
Em xin nhớ mãi một lần cùng ai !
Một đêm với hạnh phúc bất ngờ trong vòng tay người tình mà lòng luôn mơ ước. Những lời hai đứa trao đổi nhau đêm ấy, như từ tiền kiếp xa xôi nào vừa gặp lại nhau. Tôi vừa tìm được một nửa của tôi, hai tâm hồn nhập chung một thể xác, hoà quyện vào nhau.
Rừng thương em ngủ với mình
Ước thề vàng đá chén quỳnh tương say
Hương tình chếch choáng men cay
Cuộc vui tương ngộ vòng tay mê cuồng !
Tiếng pháo kích xa xa làm tôi giựt mình tỉnh giấc, một lúc sau mắt tôi mới làm quen với bóng tối. Nhìn chiếc mùng nhà binh xa lạ, tôi định tỉnh xem mình đang ở đâu?Kéo tấm chăn lệch, tôi bàng hoàng khi cả người anh đang khép chặt lấy tôi. Anh thì thầm:
-Tiếng súng xa lắm tề ! Em đừng sợ! Làm vợ lính em sẽ thua thiệt! Đời lính ngày về không dám hẹn! Dù sống hay chết anh vẫn ở bên em bảo vệ cho em! Anh không để ai làm tổn thương đến em nữa! Hãy ngủ đi em!
Cứ ngỡ là giấc mơ, tôi dụi mắt chưa tin hẳn là sự thật, nhưng... anh đang hiện diện bằng xương, bằng thịt, tôi vẫn còn gối đầu trên cánh tay anh. Tôi hít thật gần hơi thở ấm áp của anh, cái hơi hướng mà tôi cảm thấy thân quen. Tay mân mê cánh tay trần khoẻ mạnh, ôn lại phút giây tuyệt vời đêm qua. Ngày nào tôi sợ bóng tối, với anh tôi muốn bóng tối đừng đi, để mình còn được nằm trong vòng tay anh mãi mãi.
Mong đêm đừng sáng đêm ơi
Nguồn ân bể ái chơi vơi đêm này
Đêm nay tay lại trong tay
Cầu cho mãi mãi cùng ai trọn đời !
Tôi không mơ!Tôi dám vượt qua cái biên giới hẹp hòi của gia đình ngăn cấm. Tôi đã dám bỏ tất cả lại sau lưng, dám làm một việc táo bạo " trốn theo trai", một bản án nặng nề mà từ lâu bị gán ghép.Lần đầu tiên biết yêu thật sự, lần đầu tiên " ngoại tình " lần đầu tiên với người đàn ông khác. Tôi không nghĩ mình gan dạ dám chống lại má mà không sợ bị "từ bỏ ". Lần đầu tiên tôi dám "sống thật " với chính mình.
Cầu đưa qua bến tình yêu
Trái tim khờ khạo hắt hiu bóng chiều
Theo anh ba bảy cũng liều
Lội trăm biển khổ qua nhiều sông đau
Tôi tham lam quá chăng? Khi đứng núi này trông núi nọ. Hai chữ
" phản bội ", người mẹ " vô trách nhiệm ", dội vào đầu tôi muốn nổ tung lên. Tại sao anh dính liếu với kẻ bệnh hoạn, tật nguyền trong tâm não như tôi làm gì? Tôi sợ một ngày nào đó chính tự tay mình sẽ phá vỡ, cái hạnh phúc mà anh bỏ công ra xây đấp.
Sợ rằng anh sẽ hoài công...
Dã tràng xe cát đổ sông biển rồi
Tội tình chi lắm anh ơi
Sợ rằng hai đứa hai nơi chia lìa
Sáng hôm sau, anh xin được 7 ngày phép về lo chỗ ở cho tôi. Trên con đường đất quê hương, bên anh tôi bước chân đầu tiên lên chặng đường hạnh phúc. Cái dĩ vãng nặng nề âm u tôi đã vất lại bên đường.Hình như trời đất cũng chia vui với hạnh phúc tôi đang có , mà đàn chim cũng vờn bay ríu rít ca. Hai tà áo dài lam ngọc lã lướt bay quyện chân người lính Quân Y Dù, như muốn cột chân người lãng tử. Lòng hãnh diện chung bước bên người lính Dù hiên ngang.
Cảm ơn đời đã có anh
Nhìn quanh em thấy mầu xanh yêu đời
Sáng nay nghe rộn ràng vui
Nghe chim ríu rít những lời yêu thương
Tay anh choàng qua vòng eo tôi âu yếm chở che, trong ánh mắt thương yêu ấy chỉ có mình tôi đang ngự trị. Con đường đất hôm qua quá dài, đi bên anh tôi lại cảm thấy nó quá ngắn. Từng bước chân dần xa nơi tái ngộ, mà lần đầu tiên dấu vết Tình Yêu đã hâm nóng lại dòng máu lạnh trong tôi từ lâu lắm.
Con đường đất nhỏ quê hương
Bên anh chung bước nghe thương vô bờ
Tưởng chừng như một giấc mơ
Kìa khung trời mới đang chờ hai ta !
Trong khi chờ đợi tìm thuê nhà, hai đứa tạm tá túc tại nhà người bạn cùng đơn vị với anh, gần trại Hoàng Hoa Thám miệt ngã tư Bảy Hiền. Hai đứa đi sắm sửa như cặp vợ chồng mới cưới, tôi ghé qua chợ mua thức ăn, định trổ tài nội trợ nấu bữa cơm mừng ngày cưới hai đứa. Mãi mê nhìn cặp gối thêu còn thơm mùi vải mới, nhìn đôi chim ấy yếm đậu trên cành trúc, tôi mong duyên hai đứa như chim liền cánh, như cây liền cành, lòng rộn vui hạnh phúc mới hồi sinh.
Hạt thương em mới đem trồng
Hạt buồn bỏ lại bên giòng sông đau
Hạt cay đắng cũng xin chào
Mong vườn hạnh phúc hạt sầu đừng lên
Trong vườn tình ái tôi vừa gieo hạt giống yêu thương, chỉ mong hái trái hạnh phúc mà thời gian được vun bén no đầy. Giông bão đã lặn, chặng đường lầm than cũng đã qua. Còn mãi mê trang trí căn phòng, anh từ ngoài bước vào ôm chầm lấy tôi mà người thì hừng hực nóng, trên trán rịn mồ hôi. Anh nhìn tôi cười rạng rở:
-Em đói bụng chưa tề ! Răng chừ anh dọn cơm hỉ?
- Cơm chưa nấu lấy đâu mà dọn?
-Rứa mới tài! Răng em thưởng anh cái chi mô?
Tôi nhìn anh ái ngại:
-Ai lại để đàn ông vào bếp ! Bộ anh muốn tập hư em hả?
Anh nịnh đầm:
-Anh tự nguyện mà !Anh muốn cung phụng nữ hoàng của anh! Em sẽ nhớ mãi tuần trăng mật ni ! Như kỷ niệm ngày cưới hai đứa mình !
Anh sẽ đưa em về thăm Huế
Có giòng sông nắng đục mưa trong
Chiều qua Thượng Tứ nghe anh kể
Thương nước Hương Giang vẫn xuôi dòng
-Có dịp anh sẽ đưa em về Huế !Quê hương anh nghèo lắm! Rứa em có nghe cơm nguội đường đen, cơm om, muối 10 món chưa tề?
Tôi làm ra vẻ thành thạo, nửa tếu:
-Cơm nguội đường đen trong Nam cũng có vậy ! Còn cơm om tì em nấu anh ôm! Làm gì có muối 10 món, em chưa nghe bao giờ! Mà chỉ có bò 7 món thôi ! Anh chọc quê em hả?
Anh gải đầu rồi tả một hơi :
-Anh nói thiệt rứa! Mùa bão không có cá! Nhà nghèo phải ăn cơm với muối! Để anh nhớ... có muôi tiêu nè, muối ớt, muối mè, muối đậu phọng, muối ruốc, muối sả ớt, muối sả thịt, muối dầu lai, muối khuyết, muối rang...
Tôi đếm trên đầu ngón tay:
-Mới có 9 món! Còn thiếu một món nữa cơ!
Anh trêu:
-Anh chừa để thêm muối Bà Rịa! Chứ mần răng mà thiếu hè!
Quê hương anh cày lên sõi đá
Bão tố triền miên trắng kiếp người
Cơm rau, muối mặn manh áo vá
Quê hương anh nghèo lắm em ơi !
Nhìn anh mà lòng tràn hạnh phúc, với anh Tình Yêu không khởi sướng bằng chuyện chăn gối xác thịt, mà nó bao gồm lòng thương yêu và sự hiễu biết của người chồng săn sóc cho người vợ. Anh trân trọng trong tình yêu. tánh tình hoà nhã, lời nói thể hiện lòng từ tâm, độ lượng. Tôi đã chọn đúng một người chồng lý tưởng.
Có anh đêm chẳng còn buồn
Gối chăn hết lạnh bão cuồng chợt tan
Rừng mơ kết chuyện đá vàng
Nghe mùa Xuân tới rộn ràng nắng mai
Thức ăn thật ngon , thật đậm đà ấm cúng, anh gắp vào chén ép tôi ăn. Chưa bao giờ tôi được yêu thương và chìu chuộng trân trọng như vậy. Với đôi mắt ấy anh ru tôi vào bể ái ân, mà bờ môi nóng bỏng kia anh cho tôi những đam mê lôi cuốn. Anh trân trọng đở nâng, đưa tôi vào cõi bình yên, cho tôi làm lại cuộc đời sau những thăng trầm dâu bể.
Anh viết tặng em bài thơ nón lá
Anh người trai Huế bước vào mơ
Em gái miền Nam thơm nắng Hạ
Gặp gỡ chiều nao rất tình cờ !
Hai đứa tâm đầu ý hợp, anh thích nét đẹp trong tâm hồn, nét đẹp tự nhiên, nếu trang điểm thì thật nhẹ. Anh thích chiếc áo dài thuần tuý duyên dáng. Chỉ một tuần chung sống với anh mà tôi cứ ngỡ hai đứa đã là vợ chồng từ kiếp nào xa xưa lắm vừa gặp lại.
Kiếp nào ta đã hẹn nhau
Kiếp này gặp lại ta trao duyên lành
Cảm ơn, xin cảm ơn anh
Cho em hạnh phúc mầu xanh yêu đời
Anh muốn tôi nhìn về tương lai, mà tôi sẽ cho anh những đứa con kháu khỉnh. Mắt anh sáng ngời dệt mộng, say mê tính chuyện tương lai, vẽ vời nét đẹp của miền cố đô vương giả, có hoàng thành cổ kính, có câu hò Vân Lâu tình tứ, có gió cuộn Đèo Mây, có trăng Vỹ Dạ hẹn thề, có biển Tiên Sa hò hẹn, có núi Ngự thắm tình. Anh sẽ đưa tôi qua cầu Trường Tiền thân yêu, và hai đứa sẽ bên mãi mãi đến cuối cuộc đời. Anh say mê kể chuyện, tôi say mê lắng nghe, mà chưa kịp hỏi về gia đình ba mẹ, anh em của anh như thế nào?
biển Tiên Sa
Có anh đêm chẳng còn buồn
Gối chăn hết lạnh bão cuồng chợt tan
Rừng mơ kết chuyện đá vàng
Nghe mùa Xuân tới rộn ràng nắng mai
Nhìn mấy đứa trẻ con của người bạn của anh đang quấn quít bên mẹ, làm tôi chợt nhớ đến con. Tôi mãi bơi lội trong hạnh phúc, lo bàn tính chuyện tương lai mà quên bẳng đứa con yêu quý. Chắc nó đang tủi thân vì cha mẹ bỏ rơi. Tôi cảm thấy mình " có lỗi" với con bởi vì tình mà quên "bổn phận". Biết làm sao hơn khi mà sự lựa chọn nào cũng "mất mát".
Em nằm nghe mặn vành môi
Thương con thơ dại phương trời xa xăm
Vu vơ mấy giọt lệ thầm
Nỗi đau năm cũ vẫn nằm trong tim
Vén màn nhìn ra cửa sổ, nắng qua khu phố Bảy Hiền đìu hiu. Cây trứng cá de trên mái tôn trổ hoa trắng mỏng, càng đầy trái non xanh như ngọc. Vài chú chim chích choè, chim chìa vôi chuyền cành ríu rít ca. Trái non hứng nắng, hứng sương, đủ ngày, đủ tháng sẽ chín đỏ. Tôi ví von như cuộc tình hai đứa đang xanh, mà thời gian sẽ vun bón cho trái hạnh phúc được no đầy.
Trái non hứng nắng, hứng sương
Thời gian vun bén yêu thương tràn đầy
Trái kia đủ tháng, đủ ngày
No tròn hạnh phúc trên cây đỏ cành
Cả khung trời xanh biếc đọng lại trong vũng nước mưa lung linh, chợt mấy đứa trẻ đuổi nhau dẫm lên làm cả bầu trời xanh bỗng khuấy động chao đảo. Tôi bâng khuâng nhìn mùa mưa đi qua, giông bão đã lắng, mà mùa Xuân đang lấp ló đầu ngõ. Chợt bàn tay anh đặt lên vai tôi lo lắng:
-Em cứ buồn cái điệu ni mần răng cũng đổ bệnh!
Tôi lắc đầu chối quanh:
-Em đâu có buồn!
Anh hôn nhẹ lên mái tóc tôi âu yếm trách nhẹ:
-Răng em dấu anh?
Biết không thể dấu anh, tôi tự trách mình:
-Em cảm thấy có lỗi với con!
Vầng trán anh thoáng chút ưu tư, anh nhỏ nhẹ an ủi:
-Anh hiểu! Hồi mô thuê được nhà em về rước con! Anh hứa sẽ thương yêu nó như con của anh! Em phải tế nhị bởi nó luôn mặc cảm!
-Sao anh biết nó mang mặc cảm?
-Bé Loan xinh đẹp lại thông minh! Anh nghe lối xóm kể là nó "bất hạnh" . Anh hỏi nó " ba con đâu?"
Anh nhấn mạnh. Nó bảo " con là đứa trẻ thiếu tình thương"!
Kim Loan( Nina Kim)
Nghe anh kể lại lời của con mà lòng người mẹ se thắt. Những mãnh đời vỡ vụn tôi mang ra chấp nối với người con trai đất Thần Kinh. Mặc dù anh lớn tuổi hơn, nhưng là người con trai mới lớn, còn tôi thì đã là gái một con. Tôi biết anh yêu tôi chân thành, muốn cùng tôi xây dựng lâu dài, và anh yêu con gái tôi thật lòng, vì thế tôi mơ anh sẽ đem hai mẹ con tôi đi thật xa, nơi nào cũng được, có nghèo khổ như xứ Huế cũng chẳng sao, miễn ra khỏi cái gia đình mà luân lý nặng hơn phần tình cảm.
Em về góp lại thương đau
Mãnh đời vỡ vụn em trao cho chàng
Cầu cho tình chẳng dở dang
Cầu cho hai đứa đá vàng trăm năm
Trang phúc vừa mở, đánh dấu một chuyện tình thời chinh chiến, đánh dấu ngày tôi dám sống cho mình, dám bước lên dư luận mà đi. Dù ngày mai có ra sao, tôi sẽ nhớ mãi ngày hai đứa bên nhau trong căn nhà tranh hạnh phúc ấy. Dù là thú đau thương, dù dập vùi cay đắng, tôi đã can đảm dấn thân vào Tình Yêu, dám "chết thật" một lần trong Tình Yêu để được "sống thật" một lần với chính mình.
Bên anh mộng ước đã thành
Gái Nam, trai Huế duyên lành kết đôi
Trong vườn hạnh phúc hoa cười
Cầu cho mãi mãi bên người dấu yêu
Ngày mai anh trở về đơn vị, quân trang của anh tôi đã xếp vào ba lô, đôi giầy đinh gót đã mòn mà đất đỏ vẫn bám không rời. Tôi yêu lính, yêu người đã vì Tổ Quốc mà hy sinh, hơn là phải chọn người lính kiển. Làm vợ lính là thua thiệt là chờ đợi trong vô vọng, mà chiến trận có đem trả lại tôi người tình tôi yêu, hay đêm nay là đêm cuối cùng bên nhau?
Trăng khuya thương dáng em gầy
Anh về đơn vị nghe đầy nhớ nhung
Còn đêm nay nữa cuối cùng
Gió gào trên vách trăng rưng rưng buồn
Trong lòng tôi bao nỗi lo âu với nỗi buồn vây kín, chưa xa mà tôi đã cảm thấy nhớ nhung. Từ chiếc máy thu thanh, chương trình Dạ Lan của đài Tiếng Nói Quân Đội. Tiếng hát Chế Linh cất lên buồn não nuột trong bản nhạc của Trúc Phương.
Đời anh đã bao phen gió sương... gót chân in chiến trường...
Làm quen với đêm canh... gió lạnh với đêm khuya núi rừng...
Khuya nay anh đi rồi... làm sao em ngăn được...
Thà vui đi cho hết đêm nay...
Tôi nghiêng qua âu yếm nhìn anh, qua ánh đèn mờ mờ, mắt anh khép kín nửa vời, đôi mắt trủng sâu huyền hoặc. Tôi cố thu cái hình ảnh yêu dấu đó, còn một phút bên anh tôi trân quý hưởng cái hạnh phúc mà tôi cảm thấy quá mong manh.
Nhìn anh thương quá là thương
Gian nan đời lính phong sương mấy mùa
Mai này em tiễn em đưa
Anh về đơn vị mà chưa hẹn về
Ngoài kia nửa vầng trăng sáng mông mênh luồn qua khung cửa, có lẽ trăng ganh tị với cái hạnh phúc của tôi đang có nên chỉ còn nửa vầng trăng cô đơn sầu muộn, gã gió cũng biết phút chia tay nên gió bỗng buồn thở dài. Tim tôi nhói đau khi nghĩ đến phút chia tay sắp tới, những cảm xúc vui buồn bỗng theo giọt lệ tuôn chảy. Tôi oà lên khóc làm anh thức giấc. Xiết tôi trong vòng tay thật chặt anh vỗ về:
-Tất cả lỗi ni do anh! Anh hối hận đã lôi cuốn em vào cuộc tình phiêu lưu này!
-Lỗi này đâu phải do anh! Tự em theo anh mà! Em không hối hận khi chọn anh! Một ngày với anh dù có chết em cũng không bao giờ hối tiếc!
Tôi linh cảm đêm nay là đêm cuối cùng, mơ hồ ngày trở lại anh sẽ mất tôi, nhưng không biết nguyên nhân do đâu? Sợ anh lo âu nên tôi không dám nói ra. Tôi xua đi những âu lo phiền muộn, ngả vào lòng anh đòi hỏi:
-Em không lầm lẫn khi chọn anh! Hãy yêu em đêm nay và mãi mãi anh nhé!
Nói đi anh... nói đi anh
Chút ân tình cuối anh dành cho em
Nói đi tiếng nói con tim
Mặc trăng mặc gió bên thềm tương tư
Nói đi trời sắp vào Thu
Sợ Đông sẽ đến tuyết mù gió bay
Yêu em anh nhé đêm nay
Một lần cũng đủ mình say trăng thề
Nói đi em sẽ lắng nghe
Bài thơ tình ái gửi về bữa qua
Phận em như hạt mưa sa
Rơi qua vườn của người ta mất rồi!
Anh thì thầm bên tai tôi:
-Em yêu! Đời lính ngày về không dám hẹn! Đừng nhắc vì ngày mai anh đi! Còn được phút mô thì mình vui phút ấy! Hãy nằm yên trên cánh tay anh mà ngủ! Anh không muốn rời xa em dù chỉ trong gang tấc! Hãy ngủ đi em... ngủ đi...!
Với đôi môi nồng ấm, lời nói nhẹ của anh như ru tôi vào giấc ngủ bình yên. Tôi nhắm nghiền mắt tận hưởng những cái hôn nóng bỏng, hơi thở ấm áp của anh. sóng tình cuộn hai đứa vào nhau.
Ánh mắt đó ru tôi tròn giấc ngủ
Bờ môi này nóng bỏng nghĩa yêu đương
Ta dìu nhau trong vũ khúc nghê thường
Vòng tay ấm đón mời qua bến lạ
Trong bóng tối mờ mờ, những nụ hôn mê đắm kéo dài bất tận. Tôi rúc vào ngực anh thiếp đi trong giấc ngủ rã rời. Mơ màng giữa đêm khuya có hai vì sao lạc rụng thầm lặng rồi mất hút trong không gian vô tận.
Có hai vì sao lạc
Chợt rơi vào vườn thu
Vẳng bên sông tiếng hát
Của đêm nào buồn ru
Vẫn tiếng sóng biển vọng về từ xa xăm, nắng đang nô đùa trên sóng, nắng nhảy múa trên tóc. Bỗng đâu ngọn sóng thần tràn lên cuốn mất một góc lâu đài cát. Tôi ngồi bệt xuống lấy tay cào đất đấp lại bờ tường cao, người tôi ướt sủng nước, khi ngẩng lên thì ...Trời ơi! Hắn xuất hiện từ bao giờ, tôi sợ hãi buông rơi nắm võ ốc. Gương mặt hắn đanh lại, dùng gót giầy dí nát mấy võ ốc nghe rào rạo đến lạnh người. Một chân hắn đạp lên lâu đài cát, tay thì nắm tóc tôi nguyền rủa:
-Con đàn bà lăng loàn phản bội! Con dâm phụ khốn kiếp tao giết mầy!
Tôi khiếp đáp vùng vẫy nhưng không sao thoát khỏi bàn tay cứng như sắt ấy.Tôi thảng thốt kêu cứu:
-Cứu tôi với!... Có ai cứu tôi...
Tôi choàng tỉnh, thấy anh đang nắm tay tôi lay nhẹ:
-Em mơ thấy chi rứa mà chân tay thì lạnh như ri?
Tôi dằn tay lên ngực mà nhịp tim còn đập liên hồi, mồ hôi ướt đẩm cả người. Tôi cứ tưởng hình ảnh của hắn đã mờ trong dĩ vãng , không ngờ vẫn còn đeo đuổi tôi trong những cơn ác mộng. Sau một hồi hoàn hồn, thấy mình vẫn còn nằm trong vòng tay anh, tôi thở phào nhẹ nhỏm. Anh dặn dò:
-Anh đi rồi! Bây chừ em một thân một mình! Đừng thức khuya mà đổ bệnh! Mấy hôm ni em hết buồn cái ni thì buồn cái tê! Hứa với anh em sẽ cố quên chuyện đau thương cũ! Sẽ có ngày em đoàn tụ với con!
Đêm cuối cùng ta bên nhau
Mà sao nước mắt nghẹn ngào vì đâu
Trong lòng bao nỗi lo âu
Buồn lên nỗi nhớ mắt sâu đợi chờ
Bảy ngày trăng mật, anh cung phụng tôi như một nữ hoàng, những mâm cơm tự tay anh nấu, tình thương yêu đậm đà đầy ấp trong bát canh, trong chén cơm. Những khoé mắt,nụ cười ru tôi trong bể ái ân. Tình Yêu nồng nàn như sợi nắng quấn quít hai đứa không rời. Quay đi bảy ngày phép bay vèo, mà đêm cuối cùng như thoáng mây bay. Tôi muốn kéo thời gian trở lại, lòng ích kỷ không muốn anh đi. Nhưng... trời chẳng chìu lòng, nắng bình minh vừa le lói trên khung cửa, nắng trãi mình trên những mái tôn san sát, nắng vương buồn qua khu phố Bảy Hiền.
Mai này em tiễn anh đi
Vào nơi gió cát biệt ly não lòng
Bình minh le lói bên song
Nắng vương qua phố mênh mông nỗi buồn!
Giờ chia tay đã điểm, anh xiết chặt tôi trong vòng tay thật lâu như chẳng muốn rời, chiếc hôn giã biệt kéo dài... không muốn dứt. Tôi nhìn anh buồn hiu hắt, anh vuốt tóc tôi dặn dò:
-Em hãy giữ gìn sức khoẻ chờ anh kỳ phép tới! Khi mô nhớ anh thì nhìn ảnh cho đở nhớ hỉ! Rứa đừng khóc! Vợ của anh can đảm lắm tề!
-Em biết rồi! Em chờ anh!
-Cảm ơn em đã cho anh bảy ngày hạnh phúc tuyệt vời! Cảm ơn em đã yêu anh! Anh mãi mãi yêu em!
Anh quay lại ôm chặt tôi một lần cuối rồi dặn dò:
-Đừng buồn khi anh đi! Dù sống hay chết anh vẫn luôn bên em bảo vệ cho em! Nhớ hỉ vợ yêu của anh!
Vì trách nhiệm của người y sĩ, chiến tranh kéo dài quá lâu, biết bao nhiêu bạn bè anh đã gục ngả trên chiến trường, mà các đồng đội bị thương tích đang cần anh băng bó. Tôi gượng cười để anh yên tâm ra đi, nhưng... trên mi đã rưng rưng...
Ngày đi nào biết chia ly
Hẹn kỳ phép tới anh thì về thăm
Ngày về em đã biệt tăm
Chỉ còn tấm ảnh anh cầm mà đau!
Anh quay lại vẫy tay với nụ cười trìu mến hiền hoà, trên lưng chiếc ba lô nặng trĩu, từng tiếng giầy đinh nện trên con đường sõi, như còn vang theo nhịp tim tôi bồi hồi xa vắng. Đứng trông theo bóng anh khuất dần ngoài đầu ngõ... nửa hồn tôi đã bước theo anh.
Tiễn anh về với chiến trường
Giầy đinh khua động trên đường sõi đau
Đồng Xoài, sông Bé hư hao
Hoa dù tan tác xanh xao ngày về!
sông Bé
Tỉnh Phước Long giáp nước Cam Bốt, phía Đông giáp hai tỉnh Quảng Đức, Lâm Đồng, phía Nam giáp Tỉnh Phước Thành, phía Tây giáp tỉnh Bình Long. Tỉnh lỵ đặt tại Phước Bình (Sông Bé).
Chiến trận Đồng Xoài, sông Bé mở màn. Trại sông Bé bị tấn công ngày 10-5-1965. Trại Đức Cơ bị bao vây dai dẳng suốt 3 tháng, từ tháng 6 đến tháng 8. Đồng Xoài là quận lỵ Đôn Luân thuộc tỉnh Phước Long, giữ một vị trí quan trọng về phía Bắc chiến khu D. Địa danh Đồng Xoài nằm cách Sàigòn 55 dậm về hướng Tây Bắc. Tại đây là nơi đặt các cơ sở của quận và chi khu Đôn Luân. Ngoài Nghĩa Quân, Địa Phương Quân, Đồng Xoài cũng là căn cứ tân lập của Lực Lượng Đặc Biệt và cố vấn Mỹ trên 30 người.
Ngày 25-5-1965, khi các đơn vị của Lực Lượng Đặc Biệt và cố vấn Mỹ hoàn tất việc đồn trú, những trận pháo kích thăm dò của địch đã bắt đầu. Cộng Sản di chuyển 2 Trung Đoàn Q272 và 273 của công trường 7 vào trận địa với toàn phần còn lại của sư đoàn làm trừ bị. Trận chiến bắt đầu từ 11 giờ rưởi khuya ngày 9-6-1965, bằng pháo tập súng cối. Từ các vườn cao su chung quanh chi khu Đôn Luân, tiền pháo hậu xung, với quân số tấn công 2 ngàn người. Địch dùng biển người tràn ngập phòng tuyến 400 quân của Miền Nam Cộng Hoà. Cộng sản chiếm được phần lớn khu vực, binh sĩ Miền Nam tử chiến trong doanh trại chi khu. Một số chạy thoát và một số vẫn còn nằm trong khu vực phòng thủ sau cùng.
Qua ngày 11-6-1965 Việt Cộng vẫn còn chiếm giữ trận địa. Sau những trận oanh kích dữ dội của Không Quân. Từ Tân Sơn Nhất, Đại đội trực thăng 118 của Hoa Kỳ đưa binh sĩ của Sư Đoàn 5 Việt Nam vào Đồng Xoài. Tuy nhiên, lực lượng chính để phản công là Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân. Hoa Kỳ cũng đưa vào Đồng Xoài 1 Tiểu đoàn Bộ Binh Mỹ, nhưng Tướng Westmoreland cho lệnh án ngữ bất động bên ngoài.
Một phóng viên của AP, anh Horst Faas đã đi cùng Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân trực thăng vận xuống sân đá banh. Từ đây lính mũ nâu tấn công thẳng vào mặt tiền của quân Đôn Luân, mở cuộc hành quân giải toả cho Bộ Chỉ Huy Chi Khu. Những hình ảnh do nhiếp ảnh AP chụp được đã tràn ngập trên trang nhất báo chí Hoa Kỳ.
Lần đầu tiên Việt Cộng tấn công một quận của tỉnh Phước Long và đã ở lại đến ngày hôm sau, ngay khi quân miền Nam tiếp ứng. Hình ảnh chụp được khu doanh trại của cố vấn Mỹ bốc cháy, lính Biệt Động Quân xung phong vào trận địa, lính Địa Phương Quân còn kẹt bên trong chi khu vượt thoát ra ngoài.
Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân là mũi tấn công chính vào mặt tiền của quận Đôn Luân. Từ bên trong, các ổ kháng địch của quân ta vùng lên và mở đường máu thoát ra ngoài. Địch rút khỏi Đôn Luân, mở một phòng tuyến mới tại đồn điền Thuận Lợi. Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân chiếm lại chi khu với tổn thất trung bình. Một Tiểu Đoàn Bộ Binh V iệt Nam Cộng Hoà truy kích Việt Cộng bị hơn Trung đoàn địch bao vây và tiêu diệt.
Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù bắt đầu tham chiến, lấy xác anh em rồi tiếp tục xông vào tử chiến. Một số lớn anh em mũ đỏ hy sinh trong trận này, gồm cả Tiểu đoàn trưởng và các Đại đội trưởng. Trận đánh 2 ngày đẩm máu tại Đồng Xoài đưa tên chiến địa vào bài ca bất tử. Mỗi bên thương vong cả ngàn người. Địch rút lui đem theo tử sĩ và tuyên bố chiến thắng trận lịch sử Đồng Xoài.
Việt Nam Cộng Hoà chôn cất các tử sĩ đợt đầu tiên tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà. Các tướng lãnh tiếp tục họp tại Sàigòn để quyết định về việc tham chính. Trong hoàn cảnh cay đắng đó, ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1965 ra đời. Lính Cộng Hoà chết trận Đồng Xoài trước ngày Quân Lực được tuyên bố. Giấy khai tử trước giấy khai sinh của một đạo quân.
Ngàn... ngàn tử sĩ trận vong
Hứng ngàn quả pháo xung phong biển người
Đồng Xoài đất tắm máu tươi
Thây nằm chật đất mù trời khói bay
Anh không về nữa chiều nay
Phước Long anh đã vùi thây sa trường
Nghìn người nằm chết như mơ
Chiều nay mộ phủ mầu cờ buồn thiu
Nghĩa trang lạnh vắng tiêu điều
Chốn xưa còn đó người yêu đâu rồi ?
Hàng trăm tử sĩ chết trận Đồng Xoài nằm ở hàng đầu, ngay sát Nghĩa dũng đài. Linh cửu sĩ quan cấp uý trẻ tuổi xếp một hàng dài . Nước mắt tràn ngập các trại gia binh ở Biên Hoà và Sàigòn. Xe quân vận chở quan tài về miền Tây, từng chuyến lên đường. Khăn tang trắng phủ kín lòng xe, tiếng khóc chạy dài trên quốc lộ.
Lôi Hổ chết không người xây nấm mộ
Xác cây rừng phủ kín bộ xương khô
Ngậm ngùi và đau xót khi nghe Khánh Ly hát:
Tôi có người yêu... chết trận Đồng Xoài... nằm chết như mơ...
Phóng viên AP của Hoa Kỳ ( Horst Faas) đã được nhiều giải thưởng qua loạt hình chụp được tại Đồng Xoài. Anh nhẩy trực thăng cùng Tiểu đoàn Biệt Động Quân tái chiếm Đông Luân.
Dấu đi giọt lệ sắp tràn
Trời cao có thấu lầm than kiếp người
Đồng Xoài máu đổ thịt rơi
Mắt con chẳng nhắm trời ơi đau lòng
Trên đầu đạn pháo thần công
Đôn Luân, sông Bé, Phước Long điêu tàn
Người dân chưa hết kinh hoàng
Nhà tan, người chết xóm làng xác xơ
Không phần trần ai thắng ai bại, chỉ ghi lại diễn tiến lịch sử. Độc giả sẽ tự hiểu quân ta phòng thủ quận Đôn Luân gồm có Lực Lượng Đặc Biệt, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân của xóm Đạo Đồng Xoài đã tử chiến đến người cuối cùng nội trong đêm 10 tháng 6 năm 1965, tiếp theo là sự hy sinh của Biệt Động Quân, Bộ Binjh và Nhảy Dù. Sau trận chiến kinh hoàng đó, Cộng Sản đã di chuyển toàn bộ tử sĩ ra khỏi trận địa với các xe của đồn điền với hàng trăm dân công cưởng bách trong vùng. Nạn nhân là phụ nữ, trẻ em.
Trước đó vào ngày 13-2-1965, Tổng Thống Johnson đã chánh thức chấp thuận chiến dịch oanh tạc miền Bắc lấy tên là Rolling Thunder. Chiến dịch bắt đầu từ tháng 3-1965. Cũng trong tháng 3 Lực Lượng Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ lên Đà Nẳng.
Vào tháng 6 năm 1965. Tổng Thống Jonhson đã cho phép 44 Tiểu đoàn của Quân Đội Hoa Kỳ đang hiện diện tại miền Nam được phép truy lùng và tiêu diệt địch quân. Chiến tranh Việt Nam từ đấy đã bị Mỹ hoá.
(Xin đón đọc Định Mệnh 1)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét