Bút Ký: Định Mệnh 6
Bàn Tay Định Mệnh
Tác Giả: Thanh Hiền- Dị Nhơn
Bell thành phố sương mù 2015
Xuất bản năm 2004
Bàn Tay Định Mệnh
Tôi với anh xa nửa vòng trái đất
Gặp nhau đây Định Mệnh đã an bày
Núi chơ vơ biển sầu tình chất ngất
Ghé Nha thành chiều nay ngắm mây bay...
Xe cập bến, tôi chẳng dám chần chờ dọt thẳng đến bên xe Nha Trang, mua vé xong tôi mướn phòng ngủ tại bến xe luôn. Tại bến xe họ có cho mướn ghế bố, phòng ngủ thì bình dân chỉ để cái giường đơn cửa kéo chứ không có khoá. Cả đêm qua tôi không ngủ, cả ngày tôi không ăn, cả người tôi dật dờ mệt mỏi, vừa nằm xuống chưa kịp chợp mắt thì bỗng giật mình vì tiếng người chạm vào cánh cửa. Tôi ngồi bật dậy như cái lò xo, nhìn quanh xem có gì để tự vệ. Cửa sịch mở, một gương mặt lạ quắc thò đầu vào, anh ta tò mò đảo mắt nhìn quanh phòng. Chẳng đợi mời, hai anh chàng lính Nhảy Dù tự động bước vào.
Hai anh chàng nhìn tôi từ đầu cho đến chân dò xét, tôi cảm thấy ngột ngạt bởi bốn ánh mắt như muốn soi thủng qua làn áo. Chắc họ muốn đoán xem tôi thuộc loại gái nào? Phần đông ở bến xe đò hay có những cô gái ăn sương, hoặc những cô gái quê chân ướt chân ráo mới lên tỉnh. Tôi nhìn anh ta hỏi:
-Các anh muốn tìm ai?
Anh ta không trả lời mà hỏi ngược lại:
-Cô đi đâu? Bộ không có người quen hay sao mà lại mướn phòng ở bến xe?
Phần nhức đầu, phần bực mình vì bị quấy rầy, tôi bốp chát trả lời:
-Ơ hay! Tự nhiên vào đại phòng người ta mà còn hỏi lẩm cẩm!
Anh ta luống cuống gần như á khẩu chống chế:
-À ! Tôi... xin lỗi! tại vì...
Anh ta bỏ lửng câu nói đứng đực người ra, thấy tội nghiệp tôi đấu dịu:
-Tại tôi chẳng muốn làm phiền bà con! Vã lại chuyến xe ra Nha Trang rất sớm! Tôi sợ trể nên mướn phòng ở đây cho tiện!
Anh ta lấy lại bình tỉnh tự giới thiệu:
-Tôi tên Tân, đây là Hiệp bạn cùng đơn vị! Xin lỗi! Còn cô!
-Tôi tên Hồng! Hân hạnh được biết hai anh!
Bây giờ đến lượt tôi nhìn Tân dò xét. Tướng khá đô con, đôi chân mày lưỡi mác thật sắc, cầm vuông, trông anh ta cũng khá bô trai, còn Hiệp thì hơi ốm, vừa tằm gương mặt xương trông lém lĩnh. Tôi than thầm! Rõ khổ! Rủi gặp cướp cạn thì mình khó sống.
Hiệp thấy Tân có vẻ thích tôi, biết chẳng gở gạc được gì nên rút lui trước, còn Tân thì lèng èng mãi không chịu đi.
-Hồng ra Nha Trang để làm gì? Chắc ra đó đi làm phải không?
Nghe Tân hỏi tôi chợt hiểu, bởi phong trào bán bar, gái mãi dâm, chợ đen lan rộng nhất là hải cảng Cam Ranh bành trướng rất mạnh, được rất nhiều phụ nữ chiếu cố.
-Không anh ạ! Hồng đang có chuyện buồn gia đình nên tính ra đó chơi vài tuần!
Chợp được câu nói hớ của tôi Tân nói ngay:
-Nếu Hồng buồn thì anh ở lại với Hồng đêm nay nhé!
Tôi tự trách mình nói hớ mà lại không dám đuổi vì sợ Tân dùng sức mạnh làm ẩu. Chi bằng dùng vũ khí lợi hại là "nước mắt", phải uốn ba tấc lưỡi, trình bày hoàn cảnh bi đát của mình, phải thêm mắm dậm muối biết đâu Tân sẽ tha cho mình.
Nhìn mầu áo nhớ người xưa
Tình yêu tôi chẳng dám đùa người ơi
Tơ lòng trăm mối rối bời
Vướng làm chi nữa cho đời phong ba
-Nhìn anh làm Hồng nhớ đến người xưa! Anh ấy cũng lính dù! Phải chi anh ấy ở đây thì Hồng không khổ như thế này!
Tôi bật khóc, làm Tân mềm lòng nên tự bào chửa:
- Nếu như Hồng không chịu thì anh không dám ép! Bởi đời lính rày đây mai đó sống nay chết mai! Nên nhiều khi anh sống buông thả Hồng thông cảm cho anh! Cho anh xin lỗi!
Tôi bắt đầu tả oán:
-Hồng chẳng dấu gì anh! Hồng đã có một con! Vì hoàn cảnh mà Hồng phải bỏ con ra đi! Anh muốn chiếm đoạt Hồng cũng chẳng được gì! Bởi vì Hồng đang thôi chồng đang chán sống! Nếu anh giúp Hồng lìa bỏ cuộc đời này thì chính anh làm phúc cho Hồng đấy!
Lúc ấy tôi không phải đóng kịch, mà chán nãn tột độ. Sự thật tôi không dám đùa dai với lửa, tôi chỉ muốn được yên, nhưng không đơn giản như ý tôi muốn mà cám dỗ thử thách vẫn đưa đến. Cũng bởi tôi có chút nhan sắc, thêm phần nẩy nở của gái một con, dễ quyến rũ những cánh bướm đa tình lãnh mạn như Tân.
Tình cờ mình gặp nhau đây
Giữa lòng phố thị đêm gầy chưa yên
Trong lòng bao nỗi sầu riêng
Gió trăng đừng đến cho phiền đừng qua
-Thật sự thì Hồng không thích những cuộc tình vội vã qua đường! Mới gặp mà anh vồn vã quá làm Hồng hơi sợ! Tình cảm đi từ từ có lẽ sẽ tốt hơn! Nếu Hồng dễ dàng quá thì anh sẽ coi thường!
-Hồng khéo nói quá! Đã chinh phục con tim anh mất rồi! Thế thì Hồng cho anh địa chỉ đi!
Tôi lúng túng không ngờ là Tân muốn làm quen thật tình. Thật là khó xử! Phải nói làm sao cho khỏi phật lòng Tân đây! Khi mà ước vọng của Tân quá mong manh. Tôi thấy mình hơi tàn nhẫn khi phải nói dối Tân. Tôi thở dài.... đành vậy:
-Xin hẹn với anh một lần khác trong hoàn cảnh khác! Mình sẽ có thì giờ tâm sự nhiều hơn! Không chừng tình cảm sẽ tiến xa hơn! Hiện giờ Hồng đang gửi con cho mẹ mà anh cũng biết mấy cụ nhà quê rất khó tính! Anh cho Hồng địa chỉ của anh đi! Hồng đi chơi vài tuần về sẽ viết thư cho anh ngay! Chịu không?
Tôi lại hẹn hò gây lòng tin nơi Tân, Tôi tránh cái nhìn của anh vì sợ anh nhìn được sư gian dối trong tôi. Trong ánh mắt Tân ánh lửa đam mê chợt làm lòng tôi xao xuyến. Tôi thầm nghĩ "Tơ lòng mình đang rối bời chưa gỡ ra được còn vướng chi thêm nữa. Vết thương ngày cũ còn bỏng trên da, tôi chẳng dám thử lửa lần nữa. Mình không muốn làm khổ ai, vì hoàn cảnh phải làm vì không còn lối nào để thoát".
Vết thương còn bỏng trên da
Một lần thử lửa đời ta bẻ bàng
Ta như sa mạc khô khan
Anh như cơn lốc ghé ngang đêm này
-Hồng về tuần sau được không? Anh sợ sẽ trở về đơn vị không ra đón Hồng được!
-Thế thì đúng một tuần anh sẽ đón Hồng ở đây nhé!
Tân mừng rở ghi địa chỉ đưa tôi, như cập tình nhân lúc chia tay. Tân đắm đuối nhìn, nắm tay tôi dặn dò:
-Hồng đi bình an! Chúc ngủ ngon! Nhớ là anh đợi nhé!
Bỗng nhiên tình thế xoay chiều, tôi là người làm chủ tình hình. Lòng mừng thầm thoát nạn! Tội lỗi sa ngả chỉ trong đường tơ kẻ tóc. Tôi thấy mình chợt trưởng thành chính chắn hơn và đầy đủ bản lãnh, không sợ đối đầu với tất cả đàn ông, không sợ bị họ lôi cuốn.
Mai này ta sẽ đi xa
Những câu hò hẹn chỉ là đầu môi
Với ta tình chết lâu rồi
Lau dòng lệ xót đau vùi nửa đêm!
Tân đi rồi như cơn lốc ghé qua. Tôi cố dỗ giấc ngủ nhưng không tài nào chợp mắt được. Tiếng lốc cốc bán hủ tiếu, tiếng rao bán chè lanh lảnh, hoà lẫn tiếng còi hụ xe cứu thương chạy vội vàng qua phố. Tôi gác tay lên trán suy nghĩ mông lung. Hình ảnh tuổi ấu thơ, những người liên hệ tình cảm dù chỉ thoáng qua, hình như nó còn nằm trong một góc kín của tâm hồn. Nằm trong căn phòng xa lạ với bóng tối mông mênh, đời tôi bỗng quạnh hiu từ ngày anh xa vắng. Ngày mai tôi sang miền Biển Nhớ, hành trang là kỷ niệm đẹp của một chuyện tình dang dở, của bảy ngày hạnh phúc ngắn ngủi, dù phương nào nó sẽ sống mãi trong tôi.
Đảo tương tư vắng bóng chàng
Bên rào hoa dại dây oan tím đời
Chuyện đã đến phải đến, còn những bất ngờ nào sẽ đón chờ tôi ở ngày mai? Tôi lại nghĩ đến con, giờ này chắc nó đang ngủ say, tiếng đại bác ru đêm có làm con giựt mình thức giấc! Thương con bơ vơ thiếu tình thương của cha lẫn mẹ. Dòng lệ bỗng dưng lăn dài trên má, tôi thiếp vào giấc ngủ mệt mỏi đầy ác mộng hãi hùng, thấy mình đang bám vào tấm ván giữa trời biển mênh mông... bỗng đâu ngọn sóng thần ập tới, tôi thét lên trong cơn mê...
Vào đầu năm 1970, phi cơ Mỹ bắt đầu oanh tạc vào mật khu, những nơi tập trung quân CSBV và Pathet Lào. Tướng Lon Nol đảo chánh truất phế Sihanouk, chấm dứt chính sách thân cộng của Cam Bốt.
Sau Tết Canh Tuất(1970), mấy ngày Xuân ngắn ngủi qua mau, hương vị Tết như còn lưu luyến trên mấy chậu cúc, mấy nhánh mai vàng trổ muộn. Sàigòn chợt dịu mát khi thời tiết đổi mùa, dù bộ mặt mới mẻ tươi vui hơn, nhưng mùa Xuân chỉ che dấu cái bộ mặt bất an của chiến tranh vài ngày, khi Xuân đi qua thì chết chóc, tai hoạ, biểu tình cũng thập thò trên đường phố.
Trên chuyến xe Nha Trang đày ấp khách bộ hành có một thiếu phụ trẻ đang suy tư, trên mắt quầng thâm nét buồn dịu vợi xa vắng. Người thiếu phụ đó là tôi, bỏ thành phố tôi tìm về xứ biển, mong tấm lòng của biển sẽ đón nhận và yêu thương một kẻ quá nhiều thua thiệt, mất mát, và biển sẽ giúp tôi quên đi cái quá khứ thương đau. Giây phút khởi đầu cũng là giây phút kết thúc bảy năm đời nô lệ.
Đi tìm ở cuối trời quên
Bảy năm nước mắt bước trên cõi hàn
Nhìn Sàigòn lui dần theo đám bụi mờ. Tôi lẩm bẩm:
-Xin giã từ Sàigòn muôn mặt! Xin giã từ Sàigòn sa đoạ và tội lỗi!
Tôi trả lại Sàigòn những gì trong quá khứ để nhìn về tương lai. Tôi quay đi không nuối tiếc, khai tử cái tên "Hồng" và bắt đầu với cái tên mới "Hiền". Còn cái tên "Dị"thì đã chết khi tôi bước chân lên Sàigòn. Tôi chọn tên Hiền bởi khu Bảy Hiền là nơi kỷ niệm cuộc tình của Nhơn với tôi. Tôi vất chiếc áo cũ và mặc vào chiếc áo mới mong rằng đời mình sẽ như cái tên mình đã chọn.
Nha thành bở ngỡ dừng chân
Sóng sô trắng xoá bâng khuâng ngậm ngùi
Ra đi là chuyện đã rồi
Cầm bằng thôi lỡ một đời xuân xanh
Nha Trang thuộc tỉnh Khánh Hoà . Phía Bắc giáp tỉnh Phú Yên, phía Đông là biển Nam Hải, phía Nam giáp tỉnh Ninh Thuận, phía Tây giáp tỉnh Đắc Lắc. Tỉnh lỵ đặt tại Nha Trang, cách thành phố Huế 627 cây số về phía Nam và cách Sàigòn 442 cây số về phía Đông Bắc.
Phía Tây là dãy Trường Sơn, phía Đông là dãy Hoành Sơn ăn thông ra biển. Phía Bắc có Vũng Rô nằm dưới chân Đèo Cả, đặt biệt vịnh Cam Ranh phía Nam. Bãi biển Nha Tranh hình bán nguyệt, dài 4 cây số từ xóm Cồn đến Cầu Đá, ngoài khơi có nhiều đảo như: hòn Yến, hòn Tre, hòn Rùa, hòn Khói, hòn Mun... và hòn Chồng ở thôn Cù Lao cách Nha Trang 4 cây sốvề phía Bắc. Tỉnh có phi trường ở Nha Trang, Dục Mỹ, M 'Drack, Vạn Ninh và Cam Ranh.
Quốc lộ 1 là con đường chính nối liền Bắc, Trung, Nam. Thời xa xưa được gọi là Con Đường Cái Quan hay là con đường xuyên Việt. Đường từ Sàigòn ra Nha Trang được hãng thầu Mỹ gọi tắt là RMK-BRJ do những công ty sau đây họp lại:
Raymond International và Morrison- Brown&Root và J.A. Jones.
Vào khoảng năm 1966, công nhân Việt Nam làm cho hãng thầu này lên đến 50.000 ngàn người. Con đường chưa được thông suốt lắm, xe chạy cả ngày chỉ hơn nửa đường. Xe ngừng lại cho khách ngủ lại đêm. Trên xe tôi làm quen được hai người bạn, tuổi cũng suýt soát nhau, chúng tôi thay phiên nhau trông coi hành lý để đi làm công tác vệ sinh. Một trong hai người bạn ấy tình cờ nghe lén mấy tên đạo chích bàn bạc nhau, chờ khách ngủ mê sẽ ra tay ăn cắp. Vì thế ba đứa mướn chung phòng, rồi thay phiên nhau thức, thành ra bọn trộm không giở nghề ra được.
Sáng hôm sau, lên xe tôi ngồi gần Thuỷ, Thuỷ hỏi tôi về Nha Trang ở đâu? Tôi thật tình bảo là lần đầu tiên ra Nha Trang đi tìm người bạn. Thuỷ ân cần mời tôi lại nhà Thuỷ gần bến xe mà gửi tạm hành lý, khi nào tìm được bạn thì trở lại lấy. Chưa biết Nha Trang như thế nào, mới quen ngưới bạn đầu tiên nơi xứ lạ mà tôi cảm thấy mến và có cảm tình với miền đất mới này. Ngọn gió oan khiên đã đưa tôi lạc bước đến miền thuỳ dương cát trắng . Tôi mong Nha thành cũng tiếp nhập tôi ân cần nồng hậu như Thuỷ, người bạn khả ái vừa mới quen.
Sau khi lau mặt cho khoẻ, lôi mấy bộ quần áo ra, tôi chọn bộ đồ thun bó sát mầu xanh navy đậm, nghĩ là mầu xanh là mầu may mắn của mình. Tôi trang điểm phớt qua để che bớt gương mặt mệt mỏi vì thiếu ngủ. Tôi ra đón xe xích lô đạp, chỉ mang máng tên đường là Phạm Phú Quốc. Hỏi hết mấy người xích lô là không một ai biết con đường đó. Một người lớn tuổi nói một câu làm tôi nghi ngờ:
"Tôi sanh trưởng ở đây mà chưa bao giờ nghe tên đường Phạm Phú Quốc! Không chừng họ gạt cô đấy!
Tôi lẩm bẩm: "cái số mình đen đến thế là cùng!"
Đang lúc thất vọng tràn trề thì có một chiếc xích lô chạy trờ tới, khi nghe qua bác bảo biết con đường đó. Mừng gặp được cứu tinh nên tôi không trả giá. Chiếc xe chậm chạp qua đường phố, tôi lẩm nhẩm đọc tên đường, qua đường Bá Đa Lộc hai bên đường cây sao toả bóng mát êm đềm làm cơn nóng chợt dịu lại, thấp thoáng những ngôi nhà sau giàn hoa giấy nở rộ trông tỉnh mịch. Nắng hanh hanh vàng trên tàng dương diễu, những cây bàng rợp mát, sinh hoạt không ồn ào như thành phố Sàigòn.
Cổng vào Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân là cổng Phi Long, cổng vào Sư Đoàn 2 Không Quân là cổng Phạm Phú Quốc bên cạnh Hàng Không Việt Nam. Đừng vào cổng Long Vân phải qua tiệm phở gà số 1 của anh Trần Thế Tưởng. Thỉnh thoảng tôi với Sandy ghé ăn sáng với tô phở đặc biệt có trứng non ăn bùi bùi, nơi tôi gặp Trung Uý Long, và cũng nơi đây là nơi tụ tập đông đảo dân tàu bay.
Một dạo Sandy dạy Anh văn ban đêm ở trường Hưng Đạo, là trường Sinh Ngữ đầu tiên do hai anh Trần Văn Lịch và Lê Bá Thắng thành lập, còn Trần Thế Tưởng chỉ dạy chứ không có họ hàng gì với anh Lịch. Đôi khi Sandy tháp tùng cùng anh Lịch, Tưởng ra Hòn Yến câu cá và ở lại đêm.
Trong các bạn Sandy chơi thân nhất là anh Trần Văn Lịch. Gia đình anh cư ngụ tại số 33 Nguyễn Tường Tam. Chị Lịch là chị em bạn dì của phu nhân Tướng Phạm Văn Phú. Chị tháo vác và vui tính nên tôi làm thân không khó. Sơn đứa con trai đầu lòng của anh chị nói rất lưu loát tiếng Mỹ, đứa con gái kế tên Phượng và bé trai nữa tôi không nhớ tên.
Anh có chiếc xe hơi nhà hiệu Morris Minor của Anh Quốc, anh hay rước tôi ra nhà cuối tuần bày biện ăn uống nên tôi rành món Bắc từ đó. Anh chị với các bạn chơi tổ tôm, tam cúc giải trí, tôi không biết nên ngồi chầu rìa. Tôi tìm an ủi bên mấy đứa con của anh chị, đôi khi dẫn mấy đứa đi ciné , khi thì Minh Châu gần góc đường Công Quán và Yersin, còn Tần Quang ngay ngã sáu nhà đèn rạp Tần Tiến thì có nhiều quà vặt như: hủ tiếu, mì, sâm bổ lượng các thứ chè... Từ sân vận động theo đường Yersin đi ngược lên nhà ga xe lửa, đài phát thanh nằm trong khuôn viên toà tỉnh, trước đài phát thanh bên trái cuối dãy cát vàng là xóm Cồn còn di tích lịch sử là đài thiên văn Yersin.
Chùa Hải Đức gần chợ Mới trên ngọn đồi cao, sang ngọn đồi lớn là nơi chùa Phật Học có hai hàng khuynh diệp lúc nào cũng thì thầm to nhỏ, bên triền đồi thấp là trường Bồ Đề, và chùa Ngọc Hội về phía Tây ngọn đồi. Tu Viện trường dòng thì ở cuối làng xóm Bóng trên mõm núi.
Con dốc nhỏ nối liến Chutt với cầu Đá, cách Nha Trang 5 cây số về phía Nam là một hải cảng của tỉnh. Ngay bến tàu là Hải Học Viện Nha Trang xây từ năm 1924, chuyên nghiên cứu về hải dương học. Thơ mộng nhất mùa Thu, nhìn lá bàng bay tản mác trong vòng hàng rào Hải Học Viện, lá dật dờ bay qua khu phố hẹp, lá ghé qua cái quán vệ đường. Như đời sống viễn du của những chàng lính Thuỷ khoá sinh của trường Huấn Luyện Hải Quân, vừa mãn khoá với quân phục tiểu lễ trắng.
Tôi trở thành mụ già khó tính, đi nhặt những viên sõi, những võ ốc mà xây cho mình một lâu đài không có cửa sổ, mà lối đi vào tôi chấn lối bằng Tình yêu của anh. Cái thang đã rút đi chỉ còn lại một mầu tối âm u lạnh lẽo. Nó như tường đồng vách sắt, tôi thu vào đó như con ốc thu vào chiếc võ mượn hồn.
Về anh Trần Văn Lịch dù rất gần gủi nhưng tôi chưa lần hé môi tâm sự. Anh thường đưa đón tôi lúc xe nhà khi đèo honda , tôi cảm thấy mình được nâng niu trân trọng. Trong đời tôi anh là người giúp đỡ tận tình nhất mà lòng không vấn đục. Lúc nào cũng lo lắng như người anh lo cho em gái, tình thân không khác chi ruột thịt. Anh "thi ân bất cầu báo " và luôn giữ kẻ, chưa lần có cử chỉ khiếm nhã. Tôi kính trọng anh nên càng giữ kín chuyện dĩ vãng, tôi sợ lòng thương hại.
Một tháng trôi qua...
Nơi xứ biển, đời sống êm đềm không bon chen hối hả. Con đường Duy Tân trìu mến đưa tôi ra phố, ra biển, nào những nhà hàng mang tên bằng những con số, khách sạn thì có Nautique, Grand Hotel, khu Công Chánh, viện Pastes, Beau Rivage, ngã ba Bá Đa Lộc, mà con đường Độc Lập đã cho tôi những bước "tự do" dạo phố , không phải dòm trước ngó sau dấu mặt sợ hãi. Tôi an tâm vì không ai biết dĩ vãng và nguồn gốc của mình kể cả Sandy. Chẳng phải tôi sợ anh hay bạn bè tìm hiểu về đời tư của mình. Với lương tâm tôi chẳng có gì hổ thẹn, chỉ chưa đúng lúc cho Sandy biết sự thật thế thôi.
Tôi chỉ có cái tội "lấy Mỹ" thì kể như bước chân vào sa đoạ, kể ra tôi còn khối may mắn là chưa đi bán bar hay bán xác thịt, nhưng thời đó mọi người đánh giá những phụ nữ lấy Mỹ là thứ bị đào thải thuộc thành phần băng hoại của xã hội.
Một chiều đi làm về trông anh thật vui, anh nheo mắt bảo tôi bịt mặt lại vì anh có món quà đặc biệt cho tôi. Khi mở mắt ra trên tay anh chiếc hộp đã mở, chiếc nhẫn kim cương chiếu lấp lánh, chưa kịp mở lời thì anh đã trịnh trọng đeo vào ngón tay áp út của tôi, chiếc nhẫn thật xinh và vừa vặn. Anh dịu dàng bảo:
Anh luôn cho tôi sự ngạc nhiên, một sự săn sóc chu đáo của người chồng, anh cắt nghĩa cho tôi biết nếp sống phương Tây quê hương của anh, đời sống văn minh vật chất nên phải tất bật chạy theo nó, có người phải làm hai ba job mới có đủ chi phí, đời sống không êm đềm và không có tình làng nghĩa xóm như VN. Nếu như không có chiến tranh thì VN là nơi sống lý tưởng nhất. Những người lính Hoa Kỳ phải qua Việt Nam và có người đã nằm lại nơi này. Họ không tự nguyện đến nhưng vì trách nhiệm công dân và bổn phận thanh niên trong thời chiến. Duyên xui khiến anh gặp tôi và yêu tôi và yêu đất nước VN và mơ ước khi giải ngủ anh sẽ ở lại, chọn nơi đây là quê hương thứ hai.
Mỗi ngày gở lịch là tôi đếm từng ngày xa con, biết con trông chờ mỏi mắt, má với út cũng đang lo lắng chẳng biết tôi có đi thoát hay không? Tôi ngõ ý muốn về thăm nhà. Sandy có vẻ nghi ngờ hỏi:
-Nhà em ở đâu? Em đi bao lâu?
Câu hỏi làm tôi bỗng nghẹn, anh chưa tin lòng thành thật của tôi, bởi trường hợp gái làm tiền quá nhiều khiến anh nghi ngờ nên tôi không dám trách. Tôi nhắc lại:
-Em từng nói quê em ở Bà Rịa gần Vũng Tàu cách Sàigòn 100 cây số! Em có đứa con gái mà em đã có cho anh xem hình!
Anh bằng lòng cho tôi về thăm nhà với điều kiện là đi máy bay và nhờ anh Lịch mua dùm vé. Anh vào PX mua ít quà cho má và con gái. Chuyến bay trả tôi về vùng trời thân thương cũ, tôi không sợ gặp lại Hội vì tôi đã được má cho phép thôi chồng. Chỉ lo sắp đặt những câu trả lời cho ăn khớp khi má hỏi bất tử.
Sáng hôm sau, lên xe tôi ngồi gần Thuỷ, Thuỷ hỏi tôi về Nha Trang ở đâu? Tôi thật tình bảo là lần đầu tiên ra Nha Trang đi tìm người bạn. Thuỷ ân cần mời tôi lại nhà Thuỷ gần bến xe mà gửi tạm hành lý, khi nào tìm được bạn thì trở lại lấy. Chưa biết Nha Trang như thế nào, mới quen ngưới bạn đầu tiên nơi xứ lạ mà tôi cảm thấy mến và có cảm tình với miền đất mới này. Ngọn gió oan khiên đã đưa tôi lạc bước đến miền thuỳ dương cát trắng . Tôi mong Nha thành cũng tiếp nhập tôi ân cần nồng hậu như Thuỷ, người bạn khả ái vừa mới quen.
Sau khi lau mặt cho khoẻ, lôi mấy bộ quần áo ra, tôi chọn bộ đồ thun bó sát mầu xanh navy đậm, nghĩ là mầu xanh là mầu may mắn của mình. Tôi trang điểm phớt qua để che bớt gương mặt mệt mỏi vì thiếu ngủ. Tôi ra đón xe xích lô đạp, chỉ mang máng tên đường là Phạm Phú Quốc. Hỏi hết mấy người xích lô là không một ai biết con đường đó. Một người lớn tuổi nói một câu làm tôi nghi ngờ:
"Tôi sanh trưởng ở đây mà chưa bao giờ nghe tên đường Phạm Phú Quốc! Không chừng họ gạt cô đấy!
Tôi lẩm bẩm: "cái số mình đen đến thế là cùng!"
Đang lúc thất vọng tràn trề thì có một chiếc xích lô chạy trờ tới, khi nghe qua bác bảo biết con đường đó. Mừng gặp được cứu tinh nên tôi không trả giá. Chiếc xe chậm chạp qua đường phố, tôi lẩm nhẩm đọc tên đường, qua đường Bá Đa Lộc hai bên đường cây sao toả bóng mát êm đềm làm cơn nóng chợt dịu lại, thấp thoáng những ngôi nhà sau giàn hoa giấy nở rộ trông tỉnh mịch. Nắng hanh hanh vàng trên tàng dương diễu, những cây bàng rợp mát, sinh hoạt không ồn ào như thành phố Sàigòn.
Dừng chân nghe gió giao mùa
Cát mềm đón gót gió lùa tóc mây
Bên hàng dương nắng vương cây
Lạc bờ biển nhớ qua đây ngỡ ngàng
Xe chạy ngang nhà hàng số 1, tôi bảo bác xích lô ngừng lại chờ tôi giây lát. Làn gió biển mát rượi làm tôi tỉnh táo, tôi hít vào buồng phổi một hơi dài... gió tự do lùa lên tóc, lên má, lên môi. Cát mềm tự do luồn vào từng ngón chân trần viễn khách. Bao quanh tôi ngoài biển cả mênh mông là núi non hùng vĩ. Tiếng sóng thì thầm như tiếng gọi một nỗi nhớ khôn nguôi, mấy hòn đảo bơ vơ như tôi giữa dòng đời vô định. Bay về đâu hỡi cánh chim lạc giữa vùng trời Biển Nhớ?
Về đâu hỡi cánh chim trời
Chiều đi biển nhớ xa rồi cố nhân
Nhớ ai mây nước bâng khuâng
Có người lạc lối bước chân ngập ngừng...
Đây Nha Trang thành phố đón chân tôi, con đường Duy Tân lộng gió, gió vi vút qua những hàng thuỳ dương xanh mầu nhớ! Ngàn năm mây trắng vẫn chu du, ngoài khơi nắng lấp lánh trên lượn sóng, chỉ trong khoảg khắc hoá thành rừng hoa trắng rồi biến mất, cũng như cuộc tình của tôi với anh chợt thoáng qua rất vội. Tôi đã đi lạc hướng đời, mà lâu đài tình ái anh xây cho tôi đã biến thành lâu đài cát của gã dã tràng kia.
Em đi... đi lạc hướng đời
Nha Trang bỗng xót thương người chẳng may
Đường cùng có phải là đây
Đầm đìa nước mắt tràn đầy biển sông
Vũ trụ tự do đang hé mở, tương lai tốt đẹp đang chờ hay là đoạn đường cùng? Ước gì mình nằm trong lòng biển xanh kia, thế giới đó không có hận thù, không có chiến tranh, không tham vọng đời sẽ bình yên không còn đau khổ nữa. Đỉnh cao hạnh phúc quá ngắn ngủi mà vực thẳm đau thương lại quá sâu vô tận...
Chiều xưa qua biển một mình
Chiều nay qua biển thì tình cũng qua
Anh ở đâu? Sao không là con thuyền để cứu vớt thân tôi, cuộc hành trình một đời người tưởng cùng anh sánh bước, nào ngờ hôm nay một mình tôi lạc loài qua Biển Nhớ. Đã ba năm qua tôi hối hận dày vò, nơi phương trời nào đó anh có còn trên thế gian này hay đã nằm xuống trong chiến trường lửa đạn? Anh có nghe tiếng em gọi về từ vùng Biển Nhớ? Tôi sẽ trôi về đâu khi sóng cuốn đi bờ cát lỡ?
Anh ở đâu? Anh ở đâu?
Em chìm theo sóng bạc đầu cuốn đi...
Tôi lang thang bước đi không định hướng, mỗi bước càng xa người thương. Nghĩ tới đời mình đã hoen ố rồi chẳng mong gì nối lại tình xưa, mà ngày mai cũng đã muộn màng! Tôi không đi tìm người xưa mà ưu tư đi tìm cho mình một lối thoát. Tôi như chiếc lá cuối cùng đang vàng úa chỉ chờ một cơn gió nhẹ là sẽ lìa cành. Dù tôi cố thu hết tàn lực để đứng dậy, nhưng đời cố dìm tôi xuống tận đáy vực.
Bỗng một sớm ta thành tượng đá
Rồi một chiều ta làm kẻ sa cơ
Từ đáy vực bóng tối dầy đặc quá
Ta thu mình nghe trời đất bơ vơ...
Con đường tôi đi qua đã chuyên chở quá nhiều đau thương, thù hận mà chốn cũ cũng bặt lối quay về. Chỉ còn có một con đường mà con đường đó chẳng có anh. Nghĩ đến con đã thiếu tình phụ tử, chẳng lẽ bất hạnh mất luôn tình mẫu tử, đã đến lúc phải vương vai mà đứng, phải can đảm mà" sống". Phải phấn đấu vượt qua số phận nghiệt ngả, chỉ có mình tự cứu mình mà thôi. Cái "chết" không là bài thuốc giải, không thể đầu hàng "Định Mệnh", mình còn trách nhiệm làm mẹ nặng nề và bổn phận phải nuôi con cho nên người. Đường đời dù cạm bẩy gai chông mà chiếc bùa hộ mạng là đứa con yêu quý, sẽ giúp tôi vượt qua mọi cám dỗ, vượt qua đoạn đường gian truân khổ luỵ này.
Nếu bàn tay "Định Mệnh" sắp đặt sẳn và có "Duyên Nợ" với Sandy thì tôi sẽ gặp lại anh. Tôi đã tìm cho mình một lối thoát, mong Nha thành sẽ cho tôi những ngày bình an và tự do. Ngoài kia mặt biển thật an lành như vừa qua một cơn bão, nắng lên báo hiệu ngày mai trời sẽ đẹp.
Nếu bàn tay "Định Mệnh" sắp đặt sẳn và có "Duyên Nợ" với Sandy thì tôi sẽ gặp lại anh. Tôi đã tìm cho mình một lối thoát, mong Nha thành sẽ cho tôi những ngày bình an và tự do. Ngoài kia mặt biển thật an lành như vừa qua một cơn bão, nắng lên báo hiệu ngày mai trời sẽ đẹp.
Con đường Duy Tân dọc theo mé biển, với dãy nhà hàng bắt đầu từ con số 1 . Chỉ thấy xe GMC, jeep, xe lam, xe đò, xe gắn máy... thỉnh thoảng mới thấy vài chiếc xích lô đạp. Ngừng lại đường Phạm Phú Quốc thấy có Quân Cảnh gác cổng. Tôi vào hỏi thì người Quân Cảnh bảo tôi đây là khu quân sự và khu cư xá sĩ quan, muốn vào phải lên văn phòng an ninh xin giấy phép. Thế là bác xích lô lại chở tôi đến phòng an ninh, họ bảo phải có người trong cư xá ra lãnh thì mới được. Thấy rắc rối quá nên tôi kêu bác xích lô chở tôi về lại nhà Thuỷ bỏ ý định tìm Sandy. Bác xích lô đưa ý kiến:
-Cô ở xa ra đây vừa tốn tiền vừa tốn công! Hay tôi chở cô trở lại Phạm Phú Quốc cô năn nỉ thử xem! Đàn bà con gái nói chuyện dễ mà! Biết đâu... ông Quân Cảnh cho cô vào cũng không chừng!
Nghe lời đề nghị của bác xích lô có lý, nên tôi để bác chở tôi trở lại cư xá thử thời vận lần nữa. Thấy tôi trở lại, anh Quân Cảnh vui vẻ hỏi:
-Cô trở lại chắc là được giấy phép?
Tôi cười nhỏ nhẹ:
-Còn khuya mới xin được giấy vào cổng! Lần đầu tôi mới ra Nha Trang! Tìm mỏi mắt mới ra con đường Phạm Phú Quốc! Anh thông cảm bởi tôi ra thình lình nên bạn tôi không biết! Tôi gửi anh cái căn cước chỉ xin đi vào chừng 5 phút thôi!
Anh Quân Cảnh cầm tờ căn cước liếc qua:
-Cô ở Bà Rịa vậy có biết tiệm may Liên Hoan không?
-Nhà tôi bên Long Hương! Vã lại Bà Rịa nhỏ xíu! Một đôi lần tôi có may áo dài ở tiệm Liên Hoan!
-Tiệm ấy của bà chị tôi! Thôi thì mình cùng quê tôi cho cô vào! Nhưng phải trở ra trước khi tôi đổi gác!
Tôi chỉ đi tìm cầu may chớ không nhớ số nhà, thấy toàn là biệt thự sang trọng, đi lanh quanh một hồi rồi trở lui ra cổng. Anh Quân Cảnh lại bảo:
-Tôi chưa tới giờ đổi gác mà! Cô vào tìm lại lần nữa xem sao!
-Cô ở xa ra đây vừa tốn tiền vừa tốn công! Hay tôi chở cô trở lại Phạm Phú Quốc cô năn nỉ thử xem! Đàn bà con gái nói chuyện dễ mà! Biết đâu... ông Quân Cảnh cho cô vào cũng không chừng!
Nghe lời đề nghị của bác xích lô có lý, nên tôi để bác chở tôi trở lại cư xá thử thời vận lần nữa. Thấy tôi trở lại, anh Quân Cảnh vui vẻ hỏi:
-Cô trở lại chắc là được giấy phép?
Tôi cười nhỏ nhẹ:
-Còn khuya mới xin được giấy vào cổng! Lần đầu tôi mới ra Nha Trang! Tìm mỏi mắt mới ra con đường Phạm Phú Quốc! Anh thông cảm bởi tôi ra thình lình nên bạn tôi không biết! Tôi gửi anh cái căn cước chỉ xin đi vào chừng 5 phút thôi!
Anh Quân Cảnh cầm tờ căn cước liếc qua:
-Cô ở Bà Rịa vậy có biết tiệm may Liên Hoan không?
-Nhà tôi bên Long Hương! Vã lại Bà Rịa nhỏ xíu! Một đôi lần tôi có may áo dài ở tiệm Liên Hoan!
-Tiệm ấy của bà chị tôi! Thôi thì mình cùng quê tôi cho cô vào! Nhưng phải trở ra trước khi tôi đổi gác!
Tôi chỉ đi tìm cầu may chớ không nhớ số nhà, thấy toàn là biệt thự sang trọng, đi lanh quanh một hồi rồi trở lui ra cổng. Anh Quân Cảnh lại bảo:
-Tôi chưa tới giờ đổi gác mà! Cô vào tìm lại lần nữa xem sao!
Tìm anh tôi chỉ cầu may
Chẳng manh giấy lộn chẳng ngày hẹn ra
Vào trưa lính tấp nập qua
Chợt vừa nhìn thấy xa xa... một người!
Hai bên đường Phạm Phú Quốc nhiều cây bàng và dương liễu rợp bóng mát, cư xá toàn là những biệt thự sang trọng. Vào trưa xe nhà binh tấp nập chở đây nóc lính Mỹ-Việt. Xe ngừng ngay lộ chính, lính lần lượt xuống xe thả bộ về. Dưới ánh nắng chói chang của buổi trưa, đi ngược về hướng tôi là hai người lính Không Quân Mỹ. Xa xa... Sandy đã trông thấy tôi, chưa kịp nói gì thì Davis Rattray lấy khuỷu tay huých Sandy:
-Ê Sandy! Có người đẹp đang đi lạc kìa!
Sandy tủm tỉm cười hân hoan:
-Vợ tao chớ cô nào!
Davis vẫn chưa tin:
-Xạo vừa thôi! Thấy gái đẹp nhận ẩu hả!
Khoảng cách còn khá xa phần ánh nắng, tôi dụi mắt cứ ngỡ mình nhìn lầm. Nhìn cái dáng đi ấy, đúng là Sandy rồi. Tôi muốn chạy đến anh , nhưng sao chân tôi như bị chôn chân xuống đất. Ngỡ ngàng nhìn anh, cảm động không thốt nên lời.
Bước chân Sandy như vội vả hơn, niềm vui hiện lên trên mắt anh. Anh nắm tay tôi kéo về biệt thự của Davis làm toán trưởng.
Tôi với anh xa nửa vòng trái đất
Gặp nhau đây định mệnh đã an bày
Núi chơ vơ biều sầu tình chất ngất
Ghé Nha thành chiều nay ngắm mưa bay..
Từ cổng Phạm Phú Quốc nhìn vào, biệt thự đầu tiên bên phải của một Đại Tá, biệt thự đầu tiên bên trái lính Mỹ thuê dùng làm câu lạc bộ. Davis làm trưởng toán một biệt thự cách đó vài căn cũng nằm bên phải. Sandy thắc mắc là tôi làm cách nào mà vào được? Tôi bảo nhờ cái căn cước nên anh Quân Cảnh nhìn cùng quê mới cho vào, nhưng phải trở ra trước khi anh đổi gác.
Bước lên thềm, tôi thấy vài phụ nữ bồi phòng đang ngồi ngoài hiên ăn trưa. Bên trong toàn là lính Mỹ, tất cả ánh mắt đổ dồn về phía tôi. Davis giới thiệu bạn gái là chị Lang và đứa con gái lai tên Diễm. Sandy nhờ chị Lang lãnh dùm tôi vào. Chị sốt sắng nhận lời, chị bảo tôi trở lại vào khoảng 4 giờ chiều, chị sẽ đón tôi ở cổng dưới khu cư xá Nguyễn Vĩnh Ninh.
Tôi không có thì giờ để hỏi chuyện Sandy, tôi cám ơn chị và chào từ giã mọi người rồi hấp tấp trở ra cổng Phạm Phú Quốc. Sandy chẳng dám đi theo, chỉ đứng xa xa nhìn. Ra đến cổng thì cũng tới gần giờ anh Quân Cảnh đổi gác. Khi nghe tôi đã tìm được bạn, anh cũng mừng lây, nhưng tôi không dám bạn mình là người Mỹ.
Tôi cám ơn anh, anh trả lại tôi cái căn cước, và anh hỏi tôi bao giờ thì về lại Bà Rịa. Tôi bảo có lẽ vài ngày nên anh xin địa chỉ tôi ngoài phố, để anh gửi thư về cho bà chị. Bên ngoài bác xích lô vẫn kiên nhẫn chờ, Thấy tôi cười vui bác cũng đoán ra, ngồi trên xích lô tôi vẫn chưa hết bàng hoàng khi gặp lại Sandy, tôi vẫn chưa tin là sự thật.
Gặp nhau cứ tưởng là mơ
Tưởng rằng đã mất đâu ngờ gặp đây
Tình cờ tái ngộ hôm nay
Bỏ năm tháng tủi bỏ ngày chờ mong...
Buổi trưa biển hơi vắng, từng đợt sóng triền miên kéo vào bãi cát, hàng thùy dương ngã mình reo vui như chia mừng cùng tôi, lòng đang vui nhìn đâu cũng thấy vui. Từ lúc đặt chân lên Nha thành, bao nhiêu chuyện may mắn đem đến, có lẽ vận hạn xấu đã hết. Tôi thầm cám ơn anh Tám, người anh đã khuất đã phù hộ.
Tôi cảm ơn bác xích lô và trả tiền công gấp đôi, vì bác chạy đến mấy cuốc và chờ tôi rất lâu, thấy số tiền hơi nhiều làm bác ái ngại, nói mãi bác mới nhận và nói lời cảm ơn. Nếu không nhờ bác xích lô tốt bụng thì tôi đã bỏ cuộc. Thật là cảm động vì tình ưu ái của người Nha thành dành cho người lỡ bước.
Trước 4 giờ anh Quân Cảnh đến đưa thơ rồi vội vả đi. Tôi cảm ơn Thuỷ và chào từ giã, xách hành lý đón xe đến chỗ hẹn với chị Lang. Khi đến cổng Nguyễn Vĩnh Ninh đã thấy chị Lang đang bế bé Diễm với bà Trung Uý Hà Thúc Dung. Bà Dung nhận tôi là người nhà, thế là tôi vào được cư xá.
Bà Dung ở dãy phố bên trái, dãy bên phải nơi có ghế xích đu là dãy phố của Thiếu Tá Lý Bửng. Chúng tôi cảm ơn bà đã nhận tôi vào và hẹn sẽ sang thăm. Giữa hai cư xá tương phản nhau bởi Nguyễn Vĩnh Ninh giống trại gia binh hơn bởi những dãy nhà dài. Còn Phạm Phú Quôc toàn là biệt thư.Theo chị Lang đi tắt về cư xá Phạm Phú Quốc, con đường toàn là cát trắng và nhiều dương liễu.
Chị Lang đưa tôi chìa khoá phòng Sandy, phòng chị kế bên ngăn ra bởi nhà tắm và vệ sinh. Hai biệt thự này của Thiếu Tá Tôn Thất Lăng, cha mẹ ông có tiệm gỗ rất lớn ngoài phố, hai biệt thự nằm phía sau biệt thự Trung Tá Nguyễn Thế Thân. Sandy là toán trưởng của biệt thự phía sau. Có 8 phòng ngủ và 6 nhà tắm, xây cất theo lối kiến trúc Tây Phương đầy đủ tiện nghi, chỉ có quạt trần, nước nóng, ngoài hiên có lưới ngăn muỗi. Khu xư xá Phạm Phú Quốc có nhiều biệt thự cho lính Mỹ thuê, họ dạy Anh văn cho trường Sinh ngữ Không Quân mà Sandy và Davis trong số những người lính đó.
Chị Lâm Thị Lang dân Tàu lai quê miệt Cái Răng(Cần Thơ), chị có làn da trắng chiều cao cũng bằng tôi, chị không đẹp lắm nhưng dễ nhìn, rất ít khi trang điểm, tánh chị mau mắn và thành thật, mới quen mà giúp đỡ tôi rất tận tình làm tôi quý mến chị ngay. Chị cho biết cũng mới dọn vào cư xá không lâu còn đang "ở lậu" chưa có thẻ, mỗi khi đi chợ thì qua đi với bà Dung, lý do chị dọn vào cư xá vì lính Mỹ thường bị cấm trại rất khó đi ra phố.
Phòng của Sandy bày biện rất sơ sài, ngoài 2 cái giường đơn, 1 tủ áo, bàn viết, 1 tivi đen trắng hiệu Sony, radio và cái tủ lạnh nhỏ. Vừa tắm xong thì chị Lang gọi sang ăn cơm, mấy ngày qua vì đường xa, phần thiếu ngủ thêm lo âu nên tôi thắm mệt, tôi chỉ ăn qua loa rồi xin phép chị Lang về nằm nghĩ, nhưng nào tôi có nghĩ được đâu bởi lòng nôn nóng đợi Sandy đi làm về.
Nhìn Sandy vội vã bước nhanh, hình như anh cũng nôn nóng như tôi. Davis vừa trông thấy tôi đã khúc cùi chỏ sang Sandy trêu:
- Ê Sandy! Cả buổi chiều nay mày dạy học không nổi! Tối nay cho mày thức sáng đêm luôn!
Mặt tôi đỏ như gấc chính, trong khi đó Davis nheo mắt ranh mảnh nhìn tôi rồi đi thẳng về phòng chị Lang. Vừa vào phòng thì Sandy kéo tay tôi lại bảo:
-Em ngồi xuống đây anh có chuyện quan trọng muốn nói với em! Em hứa khi nào anh bỏ thuốc lá với rượu thì nhận làm vợ anh! Việc thứ nhất là anh đã cai được thuốc lá và rượu rồi! Việc thứ hai là anh đã ly dị! Hiện giờ anh còn tại ngủ nên không thể làm hôn thú với em! Chỉ hơn một năm nữa thì anh được 20 năm, khi nào giải ngủ thì anh sẽ làm hôn thú! Anh sẽ ở lại Việt Nam với em!
-Thế tại sao anh hứa có một tháng mà trể đến ba tháng?
-Anh xin lỗi bởi vì không xin qua VN được! Anh chờ mãi tới tháng 12 mới có thể xin qua, nhưng phải ra Nha Trang nên anh đi đại. Hôm ở quán em không nói gì anh cứ nghĩ là em giận việc anh trễ hẹn chắc là không ra tìm anh!
Nói sao cho hết nỗi vui mừng khi bất ngờ hai đứa gặp lại nhau. Anh nói gì thì tôi cũng ừ cho qua chuyện, vì trong lòng còn nghi ngờ chưa dám tin anh. Nhưng tôi tin vào "Bàn tay Định Mệnh" khi gặp lại Sandy.
Chị Lang đưa tôi chìa khoá phòng Sandy, phòng chị kế bên ngăn ra bởi nhà tắm và vệ sinh. Hai biệt thự này của Thiếu Tá Tôn Thất Lăng, cha mẹ ông có tiệm gỗ rất lớn ngoài phố, hai biệt thự nằm phía sau biệt thự Trung Tá Nguyễn Thế Thân. Sandy là toán trưởng của biệt thự phía sau. Có 8 phòng ngủ và 6 nhà tắm, xây cất theo lối kiến trúc Tây Phương đầy đủ tiện nghi, chỉ có quạt trần, nước nóng, ngoài hiên có lưới ngăn muỗi. Khu xư xá Phạm Phú Quốc có nhiều biệt thự cho lính Mỹ thuê, họ dạy Anh văn cho trường Sinh ngữ Không Quân mà Sandy và Davis trong số những người lính đó.
Từ trái qua: Cô Thuần-bé Diễm-chị Lang-Thanh Hiền
biệt thự Thiếu Tá Tôn Thất Lăng, cư xá Phạm Phú Quốc
( Nha Trang 1970)
Chị Lâm Thị Lang dân Tàu lai quê miệt Cái Răng(Cần Thơ), chị có làn da trắng chiều cao cũng bằng tôi, chị không đẹp lắm nhưng dễ nhìn, rất ít khi trang điểm, tánh chị mau mắn và thành thật, mới quen mà giúp đỡ tôi rất tận tình làm tôi quý mến chị ngay. Chị cho biết cũng mới dọn vào cư xá không lâu còn đang "ở lậu" chưa có thẻ, mỗi khi đi chợ thì qua đi với bà Dung, lý do chị dọn vào cư xá vì lính Mỹ thường bị cấm trại rất khó đi ra phố.
Phòng của Sandy bày biện rất sơ sài, ngoài 2 cái giường đơn, 1 tủ áo, bàn viết, 1 tivi đen trắng hiệu Sony, radio và cái tủ lạnh nhỏ. Vừa tắm xong thì chị Lang gọi sang ăn cơm, mấy ngày qua vì đường xa, phần thiếu ngủ thêm lo âu nên tôi thắm mệt, tôi chỉ ăn qua loa rồi xin phép chị Lang về nằm nghĩ, nhưng nào tôi có nghĩ được đâu bởi lòng nôn nóng đợi Sandy đi làm về.
Nhìn Sandy vội vã bước nhanh, hình như anh cũng nôn nóng như tôi. Davis vừa trông thấy tôi đã khúc cùi chỏ sang Sandy trêu:
- Ê Sandy! Cả buổi chiều nay mày dạy học không nổi! Tối nay cho mày thức sáng đêm luôn!
Mặt tôi đỏ như gấc chính, trong khi đó Davis nheo mắt ranh mảnh nhìn tôi rồi đi thẳng về phòng chị Lang. Vừa vào phòng thì Sandy kéo tay tôi lại bảo:
-Em ngồi xuống đây anh có chuyện quan trọng muốn nói với em! Em hứa khi nào anh bỏ thuốc lá với rượu thì nhận làm vợ anh! Việc thứ nhất là anh đã cai được thuốc lá và rượu rồi! Việc thứ hai là anh đã ly dị! Hiện giờ anh còn tại ngủ nên không thể làm hôn thú với em! Chỉ hơn một năm nữa thì anh được 20 năm, khi nào giải ngủ thì anh sẽ làm hôn thú! Anh sẽ ở lại Việt Nam với em!
-Thế tại sao anh hứa có một tháng mà trể đến ba tháng?
-Anh xin lỗi bởi vì không xin qua VN được! Anh chờ mãi tới tháng 12 mới có thể xin qua, nhưng phải ra Nha Trang nên anh đi đại. Hôm ở quán em không nói gì anh cứ nghĩ là em giận việc anh trễ hẹn chắc là không ra tìm anh!
Nói sao cho hết nỗi vui mừng khi bất ngờ hai đứa gặp lại nhau. Anh nói gì thì tôi cũng ừ cho qua chuyện, vì trong lòng còn nghi ngờ chưa dám tin anh. Nhưng tôi tin vào "Bàn tay Định Mệnh" khi gặp lại Sandy.
Thương sao áo lính Trường An
Anh về vội vã trường tan... tan trường
Gió luồn qua mấy hàng dương
Chao ôi thương quá con đường Duy Tân
Đường nào vào cổng Long Vân
Đường qua Phạm Phú Quốc gần hay xa?
Anh về vội vã trường tan... tan trường
Gió luồn qua mấy hàng dương
Chao ôi thương quá con đường Duy Tân
Đường nào vào cổng Long Vân
Đường qua Phạm Phú Quốc gần hay xa?
Trường Sinh Ngữ Không Quân được thành lập vào năm 1963 tại Bộ Tư Lệnh Không uân (Sàigòn). Giám Đốc là Trung Uý Vũ Hoài Nam, phụ tá là Thiếu Uý Nguyễn Bá Thọ. Sau hai năm trường thuyên chuyển ra Nha Trang trực thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân. Giám đốc là Trung Tá Lê Bá Toàn, phụ tá Trần Anh Tuấn, huấn luyện viên gồm có 8 người:
-Trần Văn Lịch- Phan N Hiển- Lê Bá Thắng- Đoàn Xuân Sắc- Nguyễn Ngọc Nhan-Nguyễn Văn Bảo- Lê Thư-Đặng Đình Hiệp...Trung Tá Lê Bá Toàn và Lê Bá Thắng là em của giáo sư Lê Bá Kông.
Những lính Không Quân qua Mỹ du học phải đủ điểm qua bài thi anh ngữ (ECL) do anh Lê Bá Thắng và anh Trần Văn Lịch kiểm soát.Trường được đặt cho cái tên là "Trường An" rất là thơ, mới nghe qua đã gieo vào lòng tôi nhiều thiện cảm.
Những người bạn Việt của Sandy mà tôi được hân ạnh gặp qua như anh Trần Văn Lịch-Lê Bá Thắng-Phan N Hiển- Đoàn Xuân Sắc- Long... phần đông dân miền Bắc, còn anh Nhan, Nô tôi chỉ nghe tên, riêng anh Nô có biệt danh là Dr No sau khi loại phim gián điệp 007 được trình chiếu. Anh Nô có đứa con gái bị tai tạn chết trên đường ra Cầu Đá.
Cổng vào Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân là cổng Phi Long, cổng vào Sư Đoàn 2 Không Quân là cổng Phạm Phú Quốc bên cạnh Hàng Không Việt Nam. Đừng vào cổng Long Vân phải qua tiệm phở gà số 1 của anh Trần Thế Tưởng. Thỉnh thoảng tôi với Sandy ghé ăn sáng với tô phở đặc biệt có trứng non ăn bùi bùi, nơi tôi gặp Trung Uý Long, và cũng nơi đây là nơi tụ tập đông đảo dân tàu bay.
Một dạo Sandy dạy Anh văn ban đêm ở trường Hưng Đạo, là trường Sinh Ngữ đầu tiên do hai anh Trần Văn Lịch và Lê Bá Thắng thành lập, còn Trần Thế Tưởng chỉ dạy chứ không có họ hàng gì với anh Lịch. Đôi khi Sandy tháp tùng cùng anh Lịch, Tưởng ra Hòn Yến câu cá và ở lại đêm.
Trần Thế Tưởng-Trần Văn Lịch (Nha Trang)
Trong các bạn Sandy chơi thân nhất là anh Trần Văn Lịch. Gia đình anh cư ngụ tại số 33 Nguyễn Tường Tam. Chị Lịch là chị em bạn dì của phu nhân Tướng Phạm Văn Phú. Chị tháo vác và vui tính nên tôi làm thân không khó. Sơn đứa con trai đầu lòng của anh chị nói rất lưu loát tiếng Mỹ, đứa con gái kế tên Phượng và bé trai nữa tôi không nhớ tên.
Cuối tuần anh chở qua nhà
Chung vui với chị ăn quà, xem phim
Minh Châu, Tân Tiến về đêm
Tần Quang tấp nập đua chen rừng người
Chùa Hải Đức gần chợ Mới trên ngọn đồi cao, sang ngọn đồi lớn là nơi chùa Phật Học có hai hàng khuynh diệp lúc nào cũng thì thầm to nhỏ, bên triền đồi thấp là trường Bồ Đề, và chùa Ngọc Hội về phía Tây ngọn đồi. Tu Viện trường dòng thì ở cuối làng xóm Bóng trên mõm núi.
Con dốc nhỏ nối liến Chutt với cầu Đá, cách Nha Trang 5 cây số về phía Nam là một hải cảng của tỉnh. Ngay bến tàu là Hải Học Viện Nha Trang xây từ năm 1924, chuyên nghiên cứu về hải dương học. Thơ mộng nhất mùa Thu, nhìn lá bàng bay tản mác trong vòng hàng rào Hải Học Viện, lá dật dờ bay qua khu phố hẹp, lá ghé qua cái quán vệ đường. Như đời sống viễn du của những chàng lính Thuỷ khoá sinh của trường Huấn Luyện Hải Quân, vừa mãn khoá với quân phục tiểu lễ trắng.
Lênh đênh sóng nước hải hồ
Cuộc đời lính Thuỷ bao giờ dừng chân
Qua trường Huấn Luyện Hải Quân
Con tầu ghé bến một lần rồi đi...
Định Mệnh đã đưa tôi đến đây, điệu nhạc thuỳ dương ru buồn muôn thuở, nắng không làm bốc lửa thêm những ngôi nhà đang cháy dở, trên tử thi què quặt nám đen, mà nó làm khôn cạn chất nhựa sống trong cây. Như con người khi chẳng còn Tình Yêu thì nó sẽ khô khan như cây cũi mục. Ngõ vườn hồng đã đóng cửa, con chim oanh thôi tiếng hót từ ngày thoát cũi sổ lồng. Tôi như thân tượng đá lạnh lùng hơn mấy tảng đá bên Hòn Chồng hòn Bảy Miếu.
Chui vào võ ốc mượn hồn
Năm im nghe sóng từng cơn thét gào
Nhìn ra biển rộng trời cao
Mênh mông mây nước chỗ nào dung thân?
Biển Sầu sóng vỗ lao xao
Cuốn đi dấu vết cuốn lâu đài trôi
Áo em tím cả khung trời
Bỗng dưng lại nhớ đến người xa xăm...
Vô số chiều tôi đứng ở đây giữa vùng trời Biển Nhớ, chặng đường hôm nay chẳng có anh, tôi lẻ loi giữa Nha thành với trái tim nhức nhối mà Sandy như cơn gió thổi vào sa mạc nắng cháy, không làm dịu bớt vùng nóng bỏng khô cằn. Tôi nhủ lòng cố quên, nhưng... mỗi lần nhìn những đợt sóng kéo về dột ầm ì tung bọt trắng xoá vào gành đá rồi tan biến đi, thì nỗi đau năm cũ chợt ập về khiến lòng bỗng nhớ cố nhân.
Chiều nay bỗng nhớ cố nhân
Hồn tan theo sóng tim hằn vết đau
Hỏi mây hỏi gió vì sao
Để cho hai đứa xa nhau kiếp này
Chặng đường tôi đi hôm nay dù chung đôi, nhưng... ngõ lạ chưa quen mà vùng Biển Nhớ vẫn mênh mông không bờ bến. Đôi khi tôi biết lỗi vì mình nhớ thương tình cũ, nhưng... tôi cần thời gian để quên, để vá víu lại trái tim đã nát! Ngày ngày tôi vẫn sang vùng
"Biển Nhớ" cho lòng nguôi ngoai nỗi phiền muộn, chỉ có tấm lòng của biển như vỗ về tha thứ cho tôi mọi lỗi lầm.
Anh đi biển nhớ về nguồn
Muôn nghìn đợt sóng điên cuồng gọi tên
Một mình ngõ lạ chưa quen
Anh đâu? Biển nhớ buồn mênh mông buồn!
Từ ngày đặt chân lên Nha thành tôi bỏ đàn và chẳng bao giờ dám nghe lại bài hát kỷ niệm cũ. Nỗi đau thương với tâm sự thầm kín tôi đem chôn sâu vào lòng của biển. Đàn ơn đừng trách vì tôi bỏ rơi đàn vì có biển, bởi cung thương đã đứt lâu rồi chẳng mong gì nối lại. tôi không thể kéo lê lết những chuỗi ngày dài buồn thảm.
Cây đàn bài hát từ đây
Đem chôn đáy biển từ ngày ly tan
Em sang ngang... em sang ngang
Hồn trăm mảnh vỡ trăng tàn rưng rưng...
Biết mình khổ vì số "đào hoa" nên tôi sống khép kín, từ bỏ phấn son, cố làm cho mình xấu đi thì chẳng ai theo đuổi nữa. Tôi không giống những cô gái có chồng Mỹ trong cư xá, bởi tôi không se sua trang điểm nhất là không biết trò chơi đen đỏ. Tôi không có giọng nói rặc người Bà Rịa, nên càng gây nghi ngờ nơi các bạn Trường An. Nơi nào tôi đến tôi hay bắt chước tiếng nói địa phương như " " mai mình về thành, mai em qua Chutt" nên ai cũng nghi là tôi là người trên thành "thành Diên Khánh". Nên khi anh Phan N Hiển mời đến nhà dự tiệc, nghe chị là giáo sư càng làm tôi không dám tới, biết anh chị buồn nhưng đành vậy.
Một tháng trôi qua...
Nơi xứ biển, đời sống êm đềm không bon chen hối hả. Con đường Duy Tân trìu mến đưa tôi ra phố, ra biển, nào những nhà hàng mang tên bằng những con số, khách sạn thì có Nautique, Grand Hotel, khu Công Chánh, viện Pastes, Beau Rivage, ngã ba Bá Đa Lộc, mà con đường Độc Lập đã cho tôi những bước "tự do" dạo phố , không phải dòm trước ngó sau dấu mặt sợ hãi. Tôi an tâm vì không ai biết dĩ vãng và nguồn gốc của mình kể cả Sandy. Chẳng phải tôi sợ anh hay bạn bè tìm hiểu về đời tư của mình. Với lương tâm tôi chẳng có gì hổ thẹn, chỉ chưa đúng lúc cho Sandy biết sự thật thế thôi.
Tôi chỉ có cái tội "lấy Mỹ" thì kể như bước chân vào sa đoạ, kể ra tôi còn khối may mắn là chưa đi bán bar hay bán xác thịt, nhưng thời đó mọi người đánh giá những phụ nữ lấy Mỹ là thứ bị đào thải thuộc thành phần băng hoại của xã hội.
Nha Trang 1970
Một chiều đi làm về trông anh thật vui, anh nheo mắt bảo tôi bịt mặt lại vì anh có món quà đặc biệt cho tôi. Khi mở mắt ra trên tay anh chiếc hộp đã mở, chiếc nhẫn kim cương chiếu lấp lánh, chưa kịp mở lời thì anh đã trịnh trọng đeo vào ngón tay áp út của tôi, chiếc nhẫn thật xinh và vừa vặn. Anh dịu dàng bảo:
-Chúng mình không tiền làm đám cưới! Thì cũng phải có nhẫn cho vợ của anh chứ! Anh rất nghèo ! Lúc ly dị phải chia hết gia tài cho vợ trước, mỗi tháng phải cấp dưỡng 4 đứa con cho đến khi anh giải ngủ! Hai đứa mình bắt đầu từ hai bàn tay trắng! Chỉ mong mình có hạnh phúc! Anh sẽ làm việc nhiều hơn để gầy dựng lại gia đình! Giầu hay nghèo mình vẫn bên nhau!
Lời nói chân tình của anh làm tôi lặng người cảm động không thốt nên lời . Tôi không đòi hỏi gì nơi anh và cũng không bắt anh phải hứa, chiến tranh vẫn chưa kết thúc, anh có thể sẽ về nước bất cứ lúc nào. Tôi chỉ sống tạm bợ với anh từng ngày, và mỗi người đều có nỗi đau riêng. Anh như con tầu vừa ghé sân ga, những toa chở quá nặng những gì của khách tha phương, rồi con tầu sẽ rời ga có mang theo người khách lữ hành này hay không?
Lời nói chân tình của anh làm tôi lặng người cảm động không thốt nên lời . Tôi không đòi hỏi gì nơi anh và cũng không bắt anh phải hứa, chiến tranh vẫn chưa kết thúc, anh có thể sẽ về nước bất cứ lúc nào. Tôi chỉ sống tạm bợ với anh từng ngày, và mỗi người đều có nỗi đau riêng. Anh như con tầu vừa ghé sân ga, những toa chở quá nặng những gì của khách tha phương, rồi con tầu sẽ rời ga có mang theo người khách lữ hành này hay không?
Đeo vào chiếc nhẫn kim cương
Nửa vui, nửa tủi lòng vương chút buồn
Với người chưa nói chữ thương
Mà chừng ân nghĩa sánh dường non cao
Cập nhẫn cưới tôi mơ ước nó đang nằm trên ngón tay tôi, nó toả sáng như tấm chân tình trong sáng anh dành cho tôi. Còn gì hạnh phúc cho bằng khi được người trân trọng xem mình là vợ. Lần đầu tiên tôi được mang nhẫn cưới, không tiệc tùng linh đình âm thầm chỉ hai đứa biết mà thôi.Tôi cảm ơn anh, tiếng cảm ơn chân thành tự đáy lòng.
Anh đeo chiếc nhẫn vào tay
Tiệc tùng chẳng có chỉ hai đứa mình
Anh cho tôi một niềm tin
Con tim nẩy nở chút tình trong tôi
Anh luôn cho tôi sự ngạc nhiên, một sự săn sóc chu đáo của người chồng, anh cắt nghĩa cho tôi biết nếp sống phương Tây quê hương của anh, đời sống văn minh vật chất nên phải tất bật chạy theo nó, có người phải làm hai ba job mới có đủ chi phí, đời sống không êm đềm và không có tình làng nghĩa xóm như VN. Nếu như không có chiến tranh thì VN là nơi sống lý tưởng nhất. Những người lính Hoa Kỳ phải qua Việt Nam và có người đã nằm lại nơi này. Họ không tự nguyện đến nhưng vì trách nhiệm công dân và bổn phận thanh niên trong thời chiến. Duyên xui khiến anh gặp tôi và yêu tôi và yêu đất nước VN và mơ ước khi giải ngủ anh sẽ ở lại, chọn nơi đây là quê hương thứ hai.
Cả đời tôi mãi ước ao
Một chồng một vợ cùng nhau xây đời
Cảm ơn xin cảm ơn người
Ngoài kia hoa nắng mỉm cười vui lây
Tôi chẳng biết anh dành dụm được bao lâu mới mua được cập nhẫn đó với giá hơn 200 đô. Hôm sau chị Lang thấy tôi đeo nhẫn , thế là Davis trách Sandy mua nhẫn cho tôi làm chi để chị Lang lại đòi. Sandy nói thẳng với Davis vì tôi là vợ nên phải mua nhẫn cưới. Tôi không nghĩ chị Lang ganh tị với tôi nên cảm thông cái ước mơ của chị. Chị và tôi chưa ai tâm sự với nhau, hai đứa làm bạn nương tựa với nhau bởi cùng hoàn cảnh lấy Mỹ. Tôi chỉ biết chị gặp Davis khi chị đi bán bar và Diễm đứa con lai không phải là con của Davis. Davis chưa ly dị vợ nên mộng làm vợ của Davis còn quá xa vời.
Nha Trang 1970
-Nhà em ở đâu? Em đi bao lâu?
Em về đâu? Em ở đâu?
Lời ai bỗng nghẹn từng câu trả lời
Nơi về chỉ có sầu rơi
Con tôi thiếu mẹ lẻ loi tủi hờn!
-Em từng nói quê em ở Bà Rịa gần Vũng Tàu cách Sàigòn 100 cây số! Em có đứa con gái mà em đã có cho anh xem hình!
Anh bằng lòng cho tôi về thăm nhà với điều kiện là đi máy bay và nhờ anh Lịch mua dùm vé. Anh vào PX mua ít quà cho má và con gái. Chuyến bay trả tôi về vùng trời thân thương cũ, tôi không sợ gặp lại Hội vì tôi đã được má cho phép thôi chồng. Chỉ lo sắp đặt những câu trả lời cho ăn khớp khi má hỏi bất tử.
Bước trên con đường đất quen thuộc mà lòng bùi ngùi, mới mấy tháng trước mình trên đường "vượt biên" con người tả tơi thảm hại. Sau mấy tháng tự do tôi đã lấy lại chút phong độ, con người âu sầu hôm qua đã thay thế một con người khác, có lòng tự tin và tươi tỉnh hơn.
Má mừng rở khi thấy tôi bình yên trở về, bao nhiêu câu hỏi tới tấp làm tôi trả lời không kịp thở. Khi hỏi về Hội thì má được dịp rủa cho một lèo:
-Mồ tổ nó! Cái thứ bán trời hỗng mời thiên lôi! Chàng ràng tao cho ăn cán chỗi mang mặt máu mà chạy hỗng kịp! Lấy súng đòi tự tử! Thằng Tư Dận giựt lại! Cái thứ " miệng hùm gan sứa " sức mấy mà dám chết!
Út chen vào tố thêm:
-Thôi má ơi! Giận chi thứ vừa xạo vừa đía cho mệt! Hồi đó má bênh chầm chập nên ảnh lộng giả thành chơn! Biết ảnh nổ tức muốn trào đờm!
Má vừa têm trầu vừa nhìn ra lộ chớp mắt phân bua:
-Ai mà biết nó dấu như mèo dấu cứt! Ai cũng lầm chớ đâu phải mình tao! Thật là thứ "hùm nhai sấu táp".
-Mồ tổ nó! Cái thứ bán trời hỗng mời thiên lôi! Chàng ràng tao cho ăn cán chỗi mang mặt máu mà chạy hỗng kịp! Lấy súng đòi tự tử! Thằng Tư Dận giựt lại! Cái thứ " miệng hùm gan sứa " sức mấy mà dám chết!
Út chen vào tố thêm:
-Thôi má ơi! Giận chi thứ vừa xạo vừa đía cho mệt! Hồi đó má bênh chầm chập nên ảnh lộng giả thành chơn! Biết ảnh nổ tức muốn trào đờm!
Má vừa têm trầu vừa nhìn ra lộ chớp mắt phân bua:
-Ai mà biết nó dấu như mèo dấu cứt! Ai cũng lầm chớ đâu phải mình tao! Thật là thứ "hùm nhai sấu táp".
Nói sao hết nỗi vui mừng khi con trông thấy tôi, nó chạy đến lấy tôi tủi thân khóc, hờn dỗi trách:
-Má đi mà không nói với con lời nào! Con nghĩ là má không còn thương con nữa!
Vuốt tóc con mà lòng bùi ngùi:
-Nếu không thương con thì má đã không đi!
-Ba gặp con cứ đòi tự tử không hà!
Nghe lời con nói, tôi chỉ biết ôm nó trong vòng tay mình mà nghẹn ngào. Con người hắn thật khó hiểu, khi sống với tôi hắn lại bỏ bê, coi rẻ, khi mất tôi hắn lại đau khổ đi tìm, hắn có thương tôi thật tình không? Nếu thương sao cứ mải lừa dối còn đem tôi ra bán. Bao nhiêu cô gái là nạn nhân đã bị hắn gạt gẩm hại đời con gái? Với hắn tôi chưa biết thế nào là thôi vị hạnh phúc, mà chỉ nếm trái đắng và ăn toàn bánh vẽ.
Con gái đâu biết rằng nếu tôi tha thứ cho cha nó, thì tôi phải trở lại sống với người chồng hờ không tình nghĩa ấy. Tôi còn đủ sáng suốt mà quyết định, cái gánh nặng tôi đã quăng đi chẳng lẽ mình nhặt lên mà gánh lại. Đã qua rồi cơn giông bão, đã qua rồi cái thời bèo dạt hoa trôi.
-Má đi mà không nói với con lời nào! Con nghĩ là má không còn thương con nữa!
Vuốt tóc con mà lòng bùi ngùi:
-Nếu không thương con thì má đã không đi!
-Ba gặp con cứ đòi tự tử không hà!
Nghe lời con nói, tôi chỉ biết ôm nó trong vòng tay mình mà nghẹn ngào. Con người hắn thật khó hiểu, khi sống với tôi hắn lại bỏ bê, coi rẻ, khi mất tôi hắn lại đau khổ đi tìm, hắn có thương tôi thật tình không? Nếu thương sao cứ mải lừa dối còn đem tôi ra bán. Bao nhiêu cô gái là nạn nhân đã bị hắn gạt gẩm hại đời con gái? Với hắn tôi chưa biết thế nào là thôi vị hạnh phúc, mà chỉ nếm trái đắng và ăn toàn bánh vẽ.
Cái thời bèo dạt hoa trôi
Có duyên không nợ với người không thương
Từ nay chia lối chia đường
Trả người lại những chuyện buồn ngày xưa!
Bên đường vất lại gánh sầu
Ai mua tôi bán một bầu tương tư
Với người đau khổ có dư
Tôi dành 2 ngày đi Cần Thơ thăm Thu Vân, thăm nơi kỷ niệm lần tự do đầu tiên, thăm gia đình Thu Vân những người đã có ân và đã thương yêu đùm bọc khi tôi lạc bước. Cuộc viếng thăm ngắn ngủi và Thu Vân tặng tôi tấm ảnh kỷ niệm ghi ngày 16 tháng 2 năm 1970. Cả hai bức ảnh đó dù đã hơn 40 năm qua, dù chân trời góc biển tôi vẫn mang theo bên mình. Hình ảnh người bạn đầu tiên, đám mây thu ấy vẫn theo tôi đến cuối cuộc đời!
Bốn tháng nữa trôi qua... bốn tháng tôi sống bình yên cùng xứ biển. Tự do là hạnh phúc vô biên khiến tôi lấy lại tinh thần. Dù khác ngôn ngữ, dù khác mầu da, nhưng tôi có thể tin vào lòng chung thuỷ của anh, với anh không có cảnh cơm đợi canh chờ, không có màn ghen tương hành hạ vô cớ. Chúng tôi tôn trọng đời tư của nhau và cảm thông nỗi đau mất mát sau lần gẫy đổ. chỉ cần liều thuốc thời gian để hàn gắn những đau thương đổ vở.
Anh chỉ cho tôi xem ảnh 4 đứa con một lần rồi thôi, và tôi cũng không hỏi tiền lương và tiền cấp dưỡng của các con anh là bao nhiêu? Tôi không muốn đề cập đến chuyện gia đình của anh vì sợ hiểu lầm mình lấy anh là vì tiền. Nếu nói lấy anh vì sắc, vì tiền vì danh vọng thì đều là sai béc. Bởi anh lớn hơn tôi 12 tuổi, không đẹp trai, phải cấp dưỡng cho 4 đứa con mà cấp bậc chỉ là Trung Sĩ nhất. Anh rất chu đáo nên luôn đưa dư tiền chợ mà tôi rất cần kiệm, số tiền dư thì tôi mua vàng lá, tôi đều đưa cho anh xem. Tôi không đòi hỏi gì thêm nữa, tôi an phận với những gì mình có.
Mấy tuần qua, sáng nào tôi cũng buồn nôn mà đường kinh nguyệt lại trễ hơn gần cả tháng, biết mình đang mang giọt máu của anh. Tôi nửa mừng nửa lo, mừng là anh quý trọng săn sóc, có trách nhiệm của người cha, lo là làm sao tỏ thật với má chuyện mình "lấy Mỹ" và con gái chấp nhận người cha kế.
Sắp đến Hè, tôi muốn đưa con ra Nha Trang cho biết anh, chuyến này tôi vui nhiều vì thực hiện được hoài bảo của mình. Có tiền trả nợ, có tiền nuôi con và giúp đỡ má bớt vất vã.
Sandy cùng anh Lịch đưa tôi ra phi trường, anh căn dặn đủ thứ, phải đi đứng cẩn thận vì cái thai, và anh cũng không quên bỏ vào bóp tôi một số tiền khá lớn.
Nhà má ngay mặt tiền, chỉ cách một đám ruộng là quốc lộ, nên khi xuống xe là trong nhà đã thấy tôi. Út reo lên mừng rở chạy ra:
-Tối qua chuột xạ rút quá chừng em biết thế nào chị cũng về! Kỳ này chị đi lâu quá ai cũng lo hết!
-Chắc Huệ nhớ chị lắm phải không?
-Chị còn phải hỏi! ngày nào đi học về nó cũng ngồi chông ngốc ngoài hàng ba! Đợi chị cho đến tối mờ tối mịt! Khi hết xe mới vô mà rươm rướm nước mắt! Lát nữa chắc làm mừng quýnh đít!
Thấy tôi về mang đồ lỉnh khỉnh và còn đưa số tiền tới 20 ngàn đồng. Má tra vấn. Tôi hít một hơi dài lấy hết can đảm:
-Con đã lấy chồng khác! Ảnh... cho con!
Đang ngồi trên ghế, má đứng lên nhanh như cái lò so hỏi tới tấp:
-Thằng đó người ở đâu? Làm nghề gì? Có vợ con gì chưa?
Tôi quýnh lên chẳng dám nhìn má, nói một hơi như trả bài:
-Ảnh...làm lính! Ảnh... là người Mỹ!Con có bầu 2 tháng rồi! Ảnh sắp giải ngũ sẽ ở lại đây luôn!
Tôi nhìn xuống đất nín thở, chờ đợi cơn thịnh nộ của má. Thời gian như ngưng lại không một tiếng động, chỉ nghe tiếng trái tim tôi đập mạnh hơn, mạch máu thì căng thẳng, mồ hôi rịn trên trán. Chợt nghe tiếng má thở dài:
-Tao gả ép bây một lần rồi! Giờ bây đã lớn khôn tao hỗng ngăn cấm nữa! Gia đình mình vốn nề nếp! Chồng nào cũng là chồng! Đừng dùng bình phong mà lén lút với người khác! Tao chỉ khuyên có bấy nhiêu thôi!
Tôi tưởng mình nghe lầm, má không rầy lấy một tiếng mà còn chấp nhận. Bao nhiêu hờn trách trong lòng bỗng vơi đi. Mối lo lớn nhất chẳng ngờ lại êm xuôi, chỉ còn mối lo sau cùng là đứa con gái. Tôi hiểu tánh con, nếu nói thật nó sẽ không đi, nên cả nhà đều dấu, đợi khi ra Nha Trang tôi sẽ tìm cách cho nó biết sau. Anh Ba khi nghe tin tôi bước thêm bước nữa mà lại là người Mỹ nên lo lắng:
-Nhà mình cũng chưa đến nỗi nào mà em phải đi lấy Mỹ! Em theo chồng về bển rủi nó bỏ thì làm sao mà trở về! Rồi còn bà con lối xóm mình phải ăn nói sao đây?
Anh Sáu gắt:
-Anh sao hay lo xa! Vợ chồng có duyên nợ! Nó đâu còn nhỏ dại mà lo! Để cho nó quyền lựa chọn! Chớ thằng chồng trước bị gạt gẫm hỗng tai tiếng hay sao! Má đã chịu rồi chỉ mong nó hết khổ thì thôi!
Thấy ai cũng bằng lòng nên anh Ba hỗng phản đối nữa, không ngờ mọi việc diễn ra êm đẹp hơn dự tính của tôi.
Chiều Nha thành xuống nhẹ nhàng dịu êm ta có thể nghe tiếng lá bàng rơi khô khan trên mặt đường. Cuối tuần xe GMC từ các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân, Hải Quân, Đồng Đế... đổ về. Và không thiếu những nữ sinh duyên dáng với tiếng cười rộn rã bên cạnh những chàng lính tàu bay hào hoa, những chàng lính thuỷ đa tình, lính Đồng Đế hiên ngang, họ lượn quanh con đường sầm quất của Nha thành. Ngoài bờ biển nơi những lùm cây, gốc dương liễu... là nơi hò hẹn lý tưởng nhất.
Vô phúc anh chàng nào mon men tìm cách tán tỉnh tôi, vừa mở lời là nó làm kỳ đà cản mũi ngay:
-Má của con đó! Chú đừng ghẹo má con!
Bị phản ứng bất ngờ, anh chàng lính xoay qua tôi:
-Cô dạy cháu giỏi thế! Chắc sợ người ta làm quen phải không?
-Con gái của tôi thật mà anh!
Anh chàng nhìn tôi nghi ngờ:
-Mặt non choẹt như thế này mà con bây lớn ai mà tin!
Khi người lính đi rồi con lại bảo:
- Con không thích mấy người lính đó!
-Con để ý họ làm chi! Mình đâu có quyền cấm họ!
Từ đó, con ít đòi ra biển nữa vì không thích ai theo đuổi tôi. Biết tánh con không chỉ ganh tị với Sandy mà với tất cả mọi người, ngoại trừ cậu Nhơn ra. Sandy hiểu điều đó nên để cho tôi dành nhiều thời giờ với con. Mấy người lính Mỹ đi dạy học về họ thường để dành cho con lúc thì táo, lúc thì bánh kẹo.
Tánh con thì thích lời dịu ngọt, mà mấy người bồi phòng lại gọi nó là con nhỏ lai, rồi gọi mầy tao với nó nên nó bỏ đi luôn.Họ mách với tôi là nó hách. Tôi cho họ biết là nó không thích ai gọi "mầy, tao", phải gọi con hoặc cháu thì nó mới trả lời, khi ấy họ mới vỡ lẻ ra.
Hai tháng Hè êm đềm trôi qua... Sandy cố gây cảm tình với nó mà chưa có kết quả. Tôi đưa con ra chào từ giã gia đình anh chị Lịch, nó hẹn với Sơn và Phượng gặp lại vào hè năm sau. Khi bảo nó lại chào Sandy thì nó bảo:
-Con không thích ông Mỹ đó!
-Thích hay không thì con cũng phải chào! Hông thôi người ta sẽ cười là người Việt không biết lễ phép và má không biết cách dạy con!
Nó bướng:
-Ông Mỹ đâu phải là ba của con! Con là đứa trẻ không cha mà!
Tôi nhìn con sững sờ, nó thút thít khóc:
-Ba bỏ con không nhìn! Giờ má cũng bỏ con! Hỗng ai thương con hết!
Lời nói của con tuy không là gươm đao nhưng nó như đâm vào tim tôi đau nhói. Tôi ôm con vỗ về:
-Má lúc nào cũng thương con nhiều hơn con nghĩ! Nước mắt chảy xuôi con ạ! Và con nên nhớ rằng tình vợ chồng có thay đổi, còn tình mẹ con thì vĩnh viễn suốt đời! Không có gì cắt đứt được!
Nó tức tưởi:
-Má lấy Mỹ rồi thế nào con cũng bị mắng!
-Ai mắng con!
- Ba chở bà vợ tới trường! Kêu con, con hỗng thèm tới gần nên ổng mắng! Mầy lớn lên cũng giống gái mẹ mầy đi lấy Mỹ mà thôi!
Nhìn con tủi thân khóc làm tôi đau buốt cả tim gan. Chuyện người lớn giải quyết với nhau, còn con thì nó đâu biết gì mà nói chi những lời độc địa đó làm vấn đục tuổi thơ. Nếu hận tôi thì nguyền rũa tôi, đừng đem những lời nguyền rủa đó đổ lên đầu một đứa trẻ vô tội. Vì thương con bất hạnh có người cha vô trách nhiệm đã chối bỏ không nhìn khi con mới sanh. Nên tôi chưa lần cho con biết những chuyện tồi tệ, oan nghiệt do cha nó gây ra, thế mà khi gặp con, hắn không hỏi về sức khoẻ hay học vấn của con, mà toàn là những lời nguyền rủa mắng chửi, gieo vào trí óc non nớt của con một người mẹ tồi bại, hư hỏng. Vì thế con rất sợ khi gặp mặt hắn với chú. Tôi không cần đính chánh, chẳng cần nói xấu, chẳng cần những món quà mua chuộc con, mà chính con đã trông thấy những hành động của người cha vô trách nhiệm kia.
-Tại sao mà con biết ba có nhiều vợ?
-Tại hồi đó ba chở con tới nhà mấy bà vợ đó! Ba cấm con không được nói với má! Nữa con lớn lên con sẽ không lấy chồng Việt đâu!
-Con đừng nghĩ thế! Việt hay Mỹ đều cũng có kẻ tốt người xấu! Như mấy cậu của con có ai lăng nhăng nhiều vợ đâu!
Con im lặng ngồi nghe, rồi chẳng hiểu sao nó đứng lên đi lại trước mặt Sandy khoanh tay cúi đầu chào anh. Anh trìu mến vuốt tóc con, ôm nó vào lòng ngạc nhiên nhìn tôi như thầm hỏi. Tôi nắm tay anh xiết nhẹ thầm cảm ơn tình thương anh đã dành cho con tôi. Một thoáng đám mây hờn tủi chợt tan, trong mắt con hiện lên niềm vui hạnh phúc.
Anh chỉ cho tôi xem ảnh 4 đứa con một lần rồi thôi, và tôi cũng không hỏi tiền lương và tiền cấp dưỡng của các con anh là bao nhiêu? Tôi không muốn đề cập đến chuyện gia đình của anh vì sợ hiểu lầm mình lấy anh là vì tiền. Nếu nói lấy anh vì sắc, vì tiền vì danh vọng thì đều là sai béc. Bởi anh lớn hơn tôi 12 tuổi, không đẹp trai, phải cấp dưỡng cho 4 đứa con mà cấp bậc chỉ là Trung Sĩ nhất. Anh rất chu đáo nên luôn đưa dư tiền chợ mà tôi rất cần kiệm, số tiền dư thì tôi mua vàng lá, tôi đều đưa cho anh xem. Tôi không đòi hỏi gì thêm nữa, tôi an phận với những gì mình có.
Mấy tuần qua, sáng nào tôi cũng buồn nôn mà đường kinh nguyệt lại trễ hơn gần cả tháng, biết mình đang mang giọt máu của anh. Tôi nửa mừng nửa lo, mừng là anh quý trọng săn sóc, có trách nhiệm của người cha, lo là làm sao tỏ thật với má chuyện mình "lấy Mỹ" và con gái chấp nhận người cha kế.
Sắp đến Hè, tôi muốn đưa con ra Nha Trang cho biết anh, chuyến này tôi vui nhiều vì thực hiện được hoài bảo của mình. Có tiền trả nợ, có tiền nuôi con và giúp đỡ má bớt vất vã.
Sandy cùng anh Lịch đưa tôi ra phi trường, anh căn dặn đủ thứ, phải đi đứng cẩn thận vì cái thai, và anh cũng không quên bỏ vào bóp tôi một số tiền khá lớn.
Nhà má ngay mặt tiền, chỉ cách một đám ruộng là quốc lộ, nên khi xuống xe là trong nhà đã thấy tôi. Út reo lên mừng rở chạy ra:
-Tối qua chuột xạ rút quá chừng em biết thế nào chị cũng về! Kỳ này chị đi lâu quá ai cũng lo hết!
-Chắc Huệ nhớ chị lắm phải không?
-Chị còn phải hỏi! ngày nào đi học về nó cũng ngồi chông ngốc ngoài hàng ba! Đợi chị cho đến tối mờ tối mịt! Khi hết xe mới vô mà rươm rướm nước mắt! Lát nữa chắc làm mừng quýnh đít!
Thấy tôi về mang đồ lỉnh khỉnh và còn đưa số tiền tới 20 ngàn đồng. Má tra vấn. Tôi hít một hơi dài lấy hết can đảm:
-Con đã lấy chồng khác! Ảnh... cho con!
Đang ngồi trên ghế, má đứng lên nhanh như cái lò so hỏi tới tấp:
-Thằng đó người ở đâu? Làm nghề gì? Có vợ con gì chưa?
Tôi quýnh lên chẳng dám nhìn má, nói một hơi như trả bài:
-Ảnh...làm lính! Ảnh... là người Mỹ!Con có bầu 2 tháng rồi! Ảnh sắp giải ngũ sẽ ở lại đây luôn!
Tôi nhìn xuống đất nín thở, chờ đợi cơn thịnh nộ của má. Thời gian như ngưng lại không một tiếng động, chỉ nghe tiếng trái tim tôi đập mạnh hơn, mạch máu thì căng thẳng, mồ hôi rịn trên trán. Chợt nghe tiếng má thở dài:
-Tao gả ép bây một lần rồi! Giờ bây đã lớn khôn tao hỗng ngăn cấm nữa! Gia đình mình vốn nề nếp! Chồng nào cũng là chồng! Đừng dùng bình phong mà lén lút với người khác! Tao chỉ khuyên có bấy nhiêu thôi!
Tôi tưởng mình nghe lầm, má không rầy lấy một tiếng mà còn chấp nhận. Bao nhiêu hờn trách trong lòng bỗng vơi đi. Mối lo lớn nhất chẳng ngờ lại êm xuôi, chỉ còn mối lo sau cùng là đứa con gái. Tôi hiểu tánh con, nếu nói thật nó sẽ không đi, nên cả nhà đều dấu, đợi khi ra Nha Trang tôi sẽ tìm cách cho nó biết sau. Anh Ba khi nghe tin tôi bước thêm bước nữa mà lại là người Mỹ nên lo lắng:
-Nhà mình cũng chưa đến nỗi nào mà em phải đi lấy Mỹ! Em theo chồng về bển rủi nó bỏ thì làm sao mà trở về! Rồi còn bà con lối xóm mình phải ăn nói sao đây?
Anh Sáu gắt:
-Anh sao hay lo xa! Vợ chồng có duyên nợ! Nó đâu còn nhỏ dại mà lo! Để cho nó quyền lựa chọn! Chớ thằng chồng trước bị gạt gẫm hỗng tai tiếng hay sao! Má đã chịu rồi chỉ mong nó hết khổ thì thôi!
Thấy ai cũng bằng lòng nên anh Ba hỗng phản đối nữa, không ngờ mọi việc diễn ra êm đẹp hơn dự tính của tôi.
Về đây vườn cũ ngỡ ngàng
Thiếu anh trầu cũng héo vàng thân cau
Thiếu em vắng lạnh vườn sau
Chuối te tua lá tre tàu buồn thiu
Con lộ mời sau nhà được hãng thầu RMK đang làm dang dở, con đường ngoài bờ ruộng cạnh hàng rào bông giấy cỏ lên cao mịt mùng. Nhìn sang con đường vào chùa Long Cốc nắng chói chang qua vùng cát trắng, ngó xéo qua nhà chú Ba Xiếu là ngôi Thích Ca Ni Tự vừa mới cất, ngày khánh thành tổ chức thật lớn, Tôi nhớ mãi món nem chua. Đây là ngôi chùa thứ hai của làng Long Hương.
Sinh hoạt vẫn chậm chạp buồn tẻ, hình ảnh quen thuộc trìu mến vẫn còn đây, nhưng buồn thiu bởi thiếu vắng anh Tám, em Thanh. Lòng bỗng dao động khi nhìn mấy con chim sáo tha rác lên ngọn cao. Chạnh nghĩ đến con mà lòng se thắt, chiều chiều nó vẫn ngồi ngoài hàng ba đợi tôi, khi không còn xe chạy qua nữa mới vào nhà, rồi mang nỗi hờn tủi vào giấc ngủ vì nhớ mẹ.
Từ xa con đã trông thấy tôi, mừng rở chạy không bén đất, vất đại chếc cặp xuống thềm ôm lấy tôi hôn tới tấp. Qua phút giây đoàn tụ cảm động ấy, nó hờn dỗi trách:
-Má đi lâu quá chừng! Bộ má hỗng nhớ con hả? Nó ghé lại tai tôi thủ thỉ:
-Bà có về, ổng chở theo bà vợ ghé trường thăm con! Con trốn hỗng ra nên ổng giận không ghé nữa! Má đừng lo con hỗng nói nơi má ở đâu!
Con gái tôi nó không giống như những đứa trẻ trong xóm, từ gương mặt đến tánh tình, còn cái tên "Búp bê" do lối xóm đặt cho, lại nữa dì út hay trêu làm nó nghi ngờ thân phận của mình:
-Dì út nói con là Bắc Kỳ bị bỏ ngoài đường! Dì út đặt chuyện phải không má?
Út càng ghẹo già:
-Có giấy tờ mướn nuôi đàng hoàng! Muốn coi hôn dì út đưa cho coi! Nó đâu có giống ai trong nhà này! Dân Bắc Kỳ chắc là lai Tây hay Mỹ gì đây nên hỗng biết cầm đũa! Má nó gửi rau muống hoài mà nó đâu thèm ăn! Hèn chi ốm nhách như con cò ma! Gió thổi một cái là bay quá tuốt qua Tây... Ninh!
Má ré lên:
-Hai dì cháu bây tối ngày như chó với mèo! Con út lớn rồi mập béo gì mà chọc em hoài vậy! Một hồi ăn roi mây hết bây giờ!
Bãi trường học sinh vui mừng như bầy chim vỡ tổ, con đường làng nhộn hịp hơn ngày thường, học sinh lớp đi bộ, lớp đi xe đạp, hình ảnh đẹp nhất là những chiếc áo dài trắng tha thướt của những nữ sinh của trường Châu Văn Tiếp, như những cánh bướm nhởn nhơ trong nắng.
Bên kia đường, con gái tôi khệ nệ ôm chồng sách. Tôi chạy ra đỡ dùm, nhìn dáng con ốm yếu mà thương, nhìn gương mặt rạng rỡ của con mà lòng người mẹ vô cùng hãnh diện, con được lãnh phần thưởng cuối năm, nó chạy u vào khoe ngoại, nghe tiếng má khen:
-Con nhỏ coi vậy mà học giỏi quá ha! Ráng học kiếm ba chữ sau này nhờ tấm thân! Vô sửa soạn mai đi Nha Trang với má!
Tôi chưa biết phải nói với con như thế nào để con hiểu mà chấp nhận chuyện tôi bước đi bước nữa. Tôi chỉ sợ con ganh tị vì nghĩ tình thương bị san xẻ, sợ con không chịu đi nên tôi chưa dám nói. Đợi ra ngoài đó, khi chuyện đã rồi thì nó phải chấp nhận thôi. Tôi chưa biết phản ứng của con ra sao? còn tuỳ thuộc vào sự khôn khéo của mình mà thôi.
Nina Kim- Điệp
Nhìn ra cây khế chua sai trái quằn nhánh, bông lún phún như chùm pháo bông rụng đầy gốc, cái xe bò nằm im lìm nằm ụ dưới gốc khế, con chó vện nằm khoanh kế bên lim dim. Vẳng tiếng ve sầu râm ran trên cây me ngoài vườn. Nắng bỗng nao nao buồn, má vừa têm trầu vừa nói bâng quơ:
-Lụi hụi đã tới hè ! Ngày mai chắc là nắng lắm!
Mênh mông biển rộng mênh mông
Như tình của mẹ vốn không bến bờ
Đầy vơi con nước bơ vơ
Trôi Nam qua Bắc bao giờ dừng chân
Lần đầu tiên con đi máy bay, trông nó tỉnh bơ như đi xe, mấy hành khách ngồi kế bên thấy nó líu lo cui cười làm họ cũng vui lây. Ngồi gần cửa sổ thấy bên dưới là những hòn đảo, núi và biển nó thốt lên:
-Ồ biển đẹp quá! Con rất thích biển và sẽ không bao giờ nhàm chán biển!
Câu nói vô tư của con làm tôi suy nghĩ, lòng mẹ như biển rộng không bến bờ, lúc nào cũng dạt dào, luôn bao bọc chở che, hy sinh cả một đời vì con. Một ngày nào đó khi con lớn khôn, biết con có còn thích biển hay sẽ nhàm chán vì những cái quyến rũ mới lạ hơn?
Sandy bận trong giờ dạy học, nên nhờ anh Lịch ra phi trường đón tôi. Nó vòng tay cúi đầu chào anh:
-Con chào bác ạ!
Anh Lịch xoa đầu nó khen:
-Ối chào! Cô bé xinh và dễ thương quá nhỉ! Cháu tên gì mấy tuổi?
Nó nhanh nhẫu:
-Dạ thưa bác cháu tên Huệ! Tuổi Dần con cọp hay ăn thịt!
Anh Lịch phì cười:
-Cô bé chắc nói nhiều!
Anh người khách trọ đêm nay
Chúng mình hai đứa túi đầy đau thương
Anh người khách trọ tha phương
Giày đinh áo trận phong sương mấy mùa!
Khi Sandy mở cửa bước vào, nó quá đổi ngạc nhiên xây lại hỏi tôi:
-Ông Mỹ nào vậy má! Bộ ổng ở đậu nhà mình phải không?
Biết không thể dấu con nữa, tôi ôm con vào lòng giải thích:
- Ổng là chồng của má! Má xin lỗi đã dấu con! Vì má sợ con biết con sẽ không ra Nha Trang!
Nó hờn dỗi rướm nước mắt quay đi, không thèm chào Sandy. Tôi lại sợ Sandy buồn, nhưng không thể dùng quyền hạn làm mẹ mà bắt buộc con phải chấp nhận người cha ghẻ. Tình cảm không thể nẩy nở một sớm một chiều mà cần thời gian. Tôi báo cho anh một tin mừng là má tôi đã chấp nhận anh là rể. Về phần con gái thì từ từ tôi sẽ dỗ nó. Anh cười thông cảm, lần đầu tiên anh gặp con tôi, chuyện tình cảm tay ba chẳng ngờ rắc rối đến thế. Nó ra mặt chống đối khi thấy Sandy có cử chỉ ấu yếm thân mật với tôi, bằng cách nó chen vào ngồi giữa, anh để tay trên đùi tôi thì nó nắm tay anh bỏ xuống mà ánh mắt như thầm bảo:
"ông không được đụng tới mẹ tôi"
Nó chợt hỏi:
-Má lấy chồng khác rồi! Mai mốt cậu Nhơn về thì má phải làm sao? Con thương cậu lắm! Con chỉ bằng lòng mình cậu thôi!
Tôi nghẹn ngào:
-Con còn nhỏ làm sao con hiểu được hở con! Lòng má đau lắm khi phải xa cậu Nhơn! Chiến tranh khốc liệt như thế này má không biết cậu Nhơn ra sau nữa! Hiện tại bây giờ má chỉ lo cho con thôi! Đời má kể như đã bỏ đi rồi! Ông Mỹ đó có ân với má! Má nguyền sẽ trả ân cho ông ta! Khi nào con lớn khôn con sẽ hiểu!
Davis lại đi công tác, chị Lang nhờ nó sang ngủ với chị cho có bạn, hôm sao chị kéo tôi lại nói nhỏ:
-Tối qua cháu Huệ trách cô hết thương nó! Má chỉ thương ông Mỷ đó! Nằm đêm má cứ tưởng con ngủ! Con khóc lén hoài mà má hỗng biết!
Tôi không ngờ con giận dai đến thế, nên từ đó tôi cố tránh những cử chỉ thân mật với Sandy trước mặt con. Chỉ mong tình thương của tôi sẽ xoá đi những ganh tị tủi hờn trong lòng con. Về mặt tâm lý, tôi thấy khó mà nối được cái ranh giới giữa Sandy và con vì cái hố ganh tị quá sâu, vì cái người mà con yêu thương và đặt kỳ vọng là Nhơn. Còn tôi không còn hy vọng gặp lại anh, với chồng tôi phải cười vui mà nỗi buồn còn dấu kín một góc đời riêng.
Tôi lo lắng cho đứa con tôi đang mang chẳng biết phản ứng của con ra sao? Quá lo lắng mấy tuần sau thì tôi xẩy thai . Tôi chẳng biết mình vui hay buồn? Riêng Sandy đã có 4 đứa con rồi, nên có nữa hay không cũng không thành vấn đề. Thấy tôi buồn anh an ủi:
-Mình đâu cần có con thêm nữa! Con của em thì cũng như là con của anh vậy!
Tôi nhìn anh cảm động, lòng kính trọng càng tăng thêm vì tấm lòng yêu thương không phân biệt của anh. Dù con chưa nhìn nhận anh, nhưng một ngày nào đó khi lớn khôn nó sẽ nhận ra. Anh Lịch ghé thăm thấy nó buồn nên hỏi:
-Sao cháu nó buồn thế? Hay lại nhớ bà?
-Nó đang giận em đó! Tại em không nói với nó em bước đi bước nữa! Cả tuần rồi nó vẫn không chịu chào Sandy! Em cũng không ngờ nó giận dai như vậy!
-Thế à! Cô bé trông thế mà khó tính nhỉ!
Thấy thế nên anh Lịch chở nó ra nhà chơi với mấy đứa con của anh chị, được cả nhà cưng chiều, dẫn đi ciné. đi ăn. Nó chỉ vui khi ở nhà anh chị, về đến nhà thì buồn hiu hắt. Sợ con ham chơi rồi thua bạn bè nên tôi ghi tên cho con học hè, mấy ngày đầu tôi đưa con ra cổng đón xe.
Nha Trang biển mặn đất lành
Mênh mông nước biếc non xanh thắm tình
Nằm đây cát trắng phơi mình
Ngày chan nắng hạ đêm nhìn trăng mơ
Chiều Nha thành xuống nhẹ nhàng dịu êm ta có thể nghe tiếng lá bàng rơi khô khan trên mặt đường. Cuối tuần xe GMC từ các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân, Hải Quân, Đồng Đế... đổ về. Và không thiếu những nữ sinh duyên dáng với tiếng cười rộn rã bên cạnh những chàng lính tàu bay hào hoa, những chàng lính thuỷ đa tình, lính Đồng Đế hiên ngang, họ lượn quanh con đường sầm quất của Nha thành. Ngoài bờ biển nơi những lùm cây, gốc dương liễu... là nơi hò hẹn lý tưởng nhất.
Vô phúc anh chàng nào mon men tìm cách tán tỉnh tôi, vừa mở lời là nó làm kỳ đà cản mũi ngay:
-Má của con đó! Chú đừng ghẹo má con!
Bị phản ứng bất ngờ, anh chàng lính xoay qua tôi:
-Cô dạy cháu giỏi thế! Chắc sợ người ta làm quen phải không?
-Con gái của tôi thật mà anh!
Anh chàng nhìn tôi nghi ngờ:
-Mặt non choẹt như thế này mà con bây lớn ai mà tin!
Khi người lính đi rồi con lại bảo:
- Con không thích mấy người lính đó!
-Con để ý họ làm chi! Mình đâu có quyền cấm họ!
Từ đó, con ít đòi ra biển nữa vì không thích ai theo đuổi tôi. Biết tánh con không chỉ ganh tị với Sandy mà với tất cả mọi người, ngoại trừ cậu Nhơn ra. Sandy hiểu điều đó nên để cho tôi dành nhiều thời giờ với con. Mấy người lính Mỹ đi dạy học về họ thường để dành cho con lúc thì táo, lúc thì bánh kẹo.
Tánh con thì thích lời dịu ngọt, mà mấy người bồi phòng lại gọi nó là con nhỏ lai, rồi gọi mầy tao với nó nên nó bỏ đi luôn.Họ mách với tôi là nó hách. Tôi cho họ biết là nó không thích ai gọi "mầy, tao", phải gọi con hoặc cháu thì nó mới trả lời, khi ấy họ mới vỡ lẻ ra.
Hai tháng Hè êm đềm trôi qua... Sandy cố gây cảm tình với nó mà chưa có kết quả. Tôi đưa con ra chào từ giã gia đình anh chị Lịch, nó hẹn với Sơn và Phượng gặp lại vào hè năm sau. Khi bảo nó lại chào Sandy thì nó bảo:
-Con không thích ông Mỹ đó!
-Thích hay không thì con cũng phải chào! Hông thôi người ta sẽ cười là người Việt không biết lễ phép và má không biết cách dạy con!
Nó bướng:
-Ông Mỹ đâu phải là ba của con! Con là đứa trẻ không cha mà!
Tôi nhìn con sững sờ, nó thút thít khóc:
-Ba bỏ con không nhìn! Giờ má cũng bỏ con! Hỗng ai thương con hết!
Lời nói của con tuy không là gươm đao nhưng nó như đâm vào tim tôi đau nhói. Tôi ôm con vỗ về:
-Má lúc nào cũng thương con nhiều hơn con nghĩ! Nước mắt chảy xuôi con ạ! Và con nên nhớ rằng tình vợ chồng có thay đổi, còn tình mẹ con thì vĩnh viễn suốt đời! Không có gì cắt đứt được!
Nó tức tưởi:
-Má lấy Mỹ rồi thế nào con cũng bị mắng!
-Ai mắng con!
- Ba chở bà vợ tới trường! Kêu con, con hỗng thèm tới gần nên ổng mắng! Mầy lớn lên cũng giống gái mẹ mầy đi lấy Mỹ mà thôi!
Nhìn con tủi thân khóc làm tôi đau buốt cả tim gan. Chuyện người lớn giải quyết với nhau, còn con thì nó đâu biết gì mà nói chi những lời độc địa đó làm vấn đục tuổi thơ. Nếu hận tôi thì nguyền rũa tôi, đừng đem những lời nguyền rủa đó đổ lên đầu một đứa trẻ vô tội. Vì thương con bất hạnh có người cha vô trách nhiệm đã chối bỏ không nhìn khi con mới sanh. Nên tôi chưa lần cho con biết những chuyện tồi tệ, oan nghiệt do cha nó gây ra, thế mà khi gặp con, hắn không hỏi về sức khoẻ hay học vấn của con, mà toàn là những lời nguyền rủa mắng chửi, gieo vào trí óc non nớt của con một người mẹ tồi bại, hư hỏng. Vì thế con rất sợ khi gặp mặt hắn với chú. Tôi không cần đính chánh, chẳng cần nói xấu, chẳng cần những món quà mua chuộc con, mà chính con đã trông thấy những hành động của người cha vô trách nhiệm kia.
Con lại hỏi:
-Tại sao ba chẳng nhìn con? Tại sao ba có nhiều vợ mà bà ngoại gả má chi vậy?-Tại sao mà con biết ba có nhiều vợ?
-Tại hồi đó ba chở con tới nhà mấy bà vợ đó! Ba cấm con không được nói với má! Nữa con lớn lên con sẽ không lấy chồng Việt đâu!
-Con đừng nghĩ thế! Việt hay Mỹ đều cũng có kẻ tốt người xấu! Như mấy cậu của con có ai lăng nhăng nhiều vợ đâu!
Con im lặng ngồi nghe, rồi chẳng hiểu sao nó đứng lên đi lại trước mặt Sandy khoanh tay cúi đầu chào anh. Anh trìu mến vuốt tóc con, ôm nó vào lòng ngạc nhiên nhìn tôi như thầm hỏi. Tôi nắm tay anh xiết nhẹ thầm cảm ơn tình thương anh đã dành cho con tôi. Một thoáng đám mây hờn tủi chợt tan, trong mắt con hiện lên niềm vui hạnh phúc.
Đám mây hờn tủi chợt tan
Niềm vui hạnh phúc thênh thang nắng hồng
Bên là con... bên là chồng
Làm sao ta gánh cho đồng hai bên
Mùa hè đầu tiên con được sống bên tôi, trong 2 tháng hè tình mẹ con thêm gắn bó, con đã hiểu chút ít nên cũng bớt ganh tị. Gần tựu trường tôi sắm sửa đồ đạc để đưa con trở lại Bà Rịa nhập học. Trước ngày trở ra Nha Trang tôi ôm con vào lòng dặn dò:
-Con ráng học! Vì đường xa phải đi máy bay nên 2 tháng má mới về thăm con! Con nên nhớ má lúc nào cũng thương con nhất trên đời!
Nó an phận:
-Con biết rồi! Con cũng thương má nhất trên đời!
Nhìn con ruột thắt trăm chiều
Mẹ buồn tựa cửa hắt hiu bóng tà
Thương con ở lại quê nhà
Ta về phương ấy ôi xa biệt mù...
Con ôm cập buồn bã bước, nhìn theo cái dáng ốm yếu của con mà tôi thấy lòng mình chùng xuống mà chân bước không đành. Đứng bên đường đón xe, nhìn vào nhà thấy má đứng tựa cửa buồn hiu hắt.
(đón đọc tiếp Định Mệnh 7
Giã từ Nha Trang)
Giã từ Nha Trang)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét