Thứ Tư, 2 tháng 3, 2016

Nghiệp Duyên- Chuyến uỷ lạo trai phong miền Bắc


    Bút ký: Nghiệp Duyên
 
    Chuyến uỷ lạo trại phong miền Bắc

   Tác giả:   Thanh Hiền- Dị Nhơn

   Bell thành phố sương mù 2016






Chuyến uỷ lạo trại phong miền Bắc

Nghe tiếng hát bơ vơ chiều xứ Bắc
Em là ai lưu lạc đến phương này
Mắt em buồn nhìn vết lở trên tay
Mà ước vọng tương lai không còn nữa!

  Từ Mỹ tôi trở lại VN vào ngày thứ ba 22-9-2009, tức là ngày mùng 5 tháng 8 âm lịch, hai ngày sau là giỗ của má và con. Lần này về căn nhà hương hoả  không còn nữa, con lộ mới  nằm vắt ngang miếng đất, miếng đất bị chia hai trông thật vô duyên. Cái ao con mất dấu, cái chòi lá mà ngày nào Sandy thường ra ngồi đọc sách vẫn còn đó, nhưng trông ảm đạm buồn thiu vì vắng bóng anh.

Túp lều lý tưởng nay còn đó
Lạnh vắng đìu hiu chỗ anh ngồi
Mưa cứ mưa hoài qua xóm nhỏ
Lối cũ em về trong lẻ loi !

Quốc lộ mới được nâng lên thật cao, làm vườn cây ăn trái ngập nước chết gần hết, nên út phải đổ đất cho bằng mặt đường. Sau đó em cho người thuê họ mở quán cà phê với cái Biển Đá. Sinh hoạt của Bà Rịa bây giờ không còn như lúc chúng tôi mới về năm 2.000. Hồi đó chỉ có 1 cây đèn đỏ, đường lộ nhỏ hẹp, bây giờ thì   đường lộ thênh thang, đèn đỏ dài dài theo đường, nhưng luật lệ thì người dân không mấy ai tuân thủ.  
  Tôi rủ Nga em gái anh Bé Châu cùng đi một chuyến ra Bắc uỷ lạo trị phong. Chúng tôi khởi hành sáng Chủ Nhật ngày 3-10-2009. Phương tiện là đi xe Hoa Mai từ bến Bà Rịa, mua 3 vé cho 2 người hết 150 ngàn, đổ xuống gần chợ Bến Thành mới đón taxi vào quận 7, tiền taxi lại hơn tiền xe từ Bà Rịa lên. Vì Thiền viện nằm trong hẻm nên thầy Thích Chơn Phương cho thầy Chơn Hiếu lái xe gắn máy ra rước tôi, còn Nga thì đón 1 chiếc xe ôm khác vô sau. Thật tình mà nói tôi rất ngại vì để thầy chở, cố ngồi làm sao để không đụng vào thầy,tay cố bám chặt để không bị rớt.
  Thiền Viện Pháp Hoa thuộc về khu phố 2 quận 7, đường Huỳnh Tấn Phát, Trụ trì là Thương Toạ Thích Chơn Phương. Sở ddi4 tôi vào hơi sớm vì thầy trụ trì cho biết hôm nay là giỗ của sư phụ thầy là cố Hoà Thượng Pháp sư Thích Quảng Liên, viện chủ Tu Viện Quảng Đức.V tiểu sử của ngài từng tốt nghiệp cao đẳng Phật học Huế, tốt nghiệp Phật học Quốc tế Columbo(Srilanka). Và là Tiến sĩ Phật học Yale Hoa Kỳ năm 1960. Các đệ tử của ngài chữ đệm là (Chơn). Thầy Chơn Phương  là đệ tử lớn.
  Tôi quen biết thầy Chơn Phương qua chị Thái (Diệu Thuý ) chị của nhà văn Ái Khanh, thầy rất thích văn thơ, được biết trước kia thầy là bác sĩ? trước năm 75 đảm nhiệm chúc phó bệnh viện Chợ Quán. Thầy cũng là người tiên phuông thành lập trại phong Bình Minh. Lúc Sandy lên trị bệnh về xương gần trường đua Phú Thọ, tôi chỉ ghé qua vội vã  gửi tiền cúng dường của các bạn đạo.



Từ trái qua: thầy Chơn Khải- Chơn Phương- Minh Hà

  Lần này Sandy qua đời được 3 năm, tôi rảnh rang nên cũng muốn làm một chuyến ra Bắc thăm trại phong, một nguyện vọng mà tôi hằng mong ước. Phái đoàn gồm có 7 người.
 Thầy Chơn Phương cùng tuổi gà với tôi, tướng người ốm yếu nhỏ nhắn, hàm răng rụng gần hết, thầy Chơn Khải thì đẩy đà,  đảm nhận quay phim, cả hai dân miền Nam. Thầy Quảng Hiếu còn trẻ, tướng người cao lớn, dân miền núi Ngự sông Hương. Thầy   vừa tốt nghiệp Phật học, đang tính xuất ngoại qua Tu Viện Kim Sơn (Cali). Thầy Quảng Hiếu phụ trách về âm thanh.
  Phật tử Năm Xuân- Thiện Báo- Nga và tác giả. Phật tử Năm Xuân là  thợ may, là Phật tử của thiền viện, vốn là lính VNCH. Tướng anh cao ráo, rắn chắc vì thường tập thể dục, anh đảm nhận vai phó nhòm.Anh Mười pháp danh Thiện Báo, anh là bạn học lâu đời của thầy Chơn Phương. Tướng  anh lết bết vì hai chân bị tai nạn nên đi chân thấp chân cao. Cả hai anh đều là người Nam. Anh Thiện Báo có hảng xe bus, anh kể:
  "Một lần anh đi mua thịt quay về để cúng. Anh chàng bán thịt lấy đùi heo xuống chặt, thì anh thấy là đùi người đang chảy máu. Anh sợ quá nên từ đó ăn chay trường luôn".



Thiện  Báo người mặt áo sọc -2009 

  Tôi vừa đến thì cũng sắp sửa bắt đầu lễ, Phật tử  cùng huynh đệ của thầy cũng khá đông.Khoá lễ xong thì đến phần dùng trưa, tiếp theo là phần văn nghệ. Khi tàn văn nghệ thì Phật tử về gần hết, thì tôi với Nga mới tìm chỗ nghĩ lưng, leo lên lầu thì dội trở xuống vì cái mùa chua chua, khai khai của nước tiểu và phân mèo. Nói chung thì thiền viện  vấn đề vệ sinh quá tệ. Chúng tôi lại trở xuống và tìm khăn trải  dưới đất nằm tạm.
  Lúc thầy làm lễ cho sư phụ, giọng thầy nghèn nghẹn đầy xúc cảm, trên bàn thờ ngoài thức ăn, tthầy rót bia cúng sư phụ làm tôi quá đổi ngạc nhiên. Bây giờ Phật tử đã ra về hết thì quý thầy lại bày tiệc,  lần này có nguyên một thùng bia lon. Quý thầy cụng ly nhau uống tỉnh bơ, giống như người ngoài đời chén tạc, chén thù  cười nói ròn rã, không cần biết có hai chúng tôi đang "bị sốc". Nga nhìn tôi như thầm hỏi "tại sao các thầy tu lại uống bia?" . Tôi bị sốc thật sự  khi nhìn thấy cảnh ấy nên mới than phiềm với thầy Chơn Khải, nhưng thầy chỉ trả lời qua loa. 



 Thanh Hiền- Nga- 2009

  Bao nhiêu sự tôn kính phút chốc bỗng tan theo mây khói, lòng tôi nặng trịch như nén nhang tàn vừa rớt rồi tự hỏi mình "Phật giáo VN xuống dốc thảm hại đến thế này sao?" Đã là thầy tu mà còn phạm giới nghiêm trọng như thế thì làm sao có thể truyền giới cho Phật tử. Thầy làm sai thì thầy sẽ nhận cái hậu quả, đó là cá nhân của quý thầy, nhưng nói chung về đoàn thể tăng lữ thì sẽ ra sao? Riêng tôi rất lấy làm tiếc và buồn  khi nhìn những chiếc áo nhà tu bị quý  thầy làm hoen ố, quý thầy đã xem nhẹ chiếc áo của Như Lai. "Đành rằng chiếc áo không làm nên thầy tu, nhưng thầy tu không thể thiếu chiếc áo". 
   Tôi là Phật tử thuận thành thì không  sao,  nhưng Nga thì chưa quy y, nhìn cảnh ấy thì niềm tin không còn. Tôi muốn bỏ ra về, nhưng đã lỡ đến đây rồi, nén lòng mà ở lại mà trong lòng buồn bực không vui.



thầy Quảng Hiếu-2009

  Chuyến xe ra Bắc bằng hãng xe Mai Linh , với bảng số 4145, giá khứ hồi là 1 triệu rưởi bao luôn ăn uống. Tôi mua vé luôn cho Nga, Thiện Báo ngồi cùng  dãy nhưng bên kia hàng ghế, anh mặc chiếc áo da dầy cui làm tôi đổ mồ hôi hột dùm. Lúc sắp   sửa lên đường, con trai anh chở tới 1 va li to đùng toàn là áo lạnh, chắc con anh sợ anh bị lạnh? Trông anh hơi nghiêm nghị, có vẻ hách ít nòi nên tôi cũng e dè chưa muốn làm quen.
  Xe ghé lại tiệm Thanh Tuyền ăn tối và cho khách xả bầu tâm sự, phòng vệ sinh rất sạch sẻ và đoàn luôn có bàn cơm chay cũng khá thịnh soạn. Tài xế thay phiên nhau  chạy suốt đêm. Ngừng lại ăn sáng tại Qui  Nhơn, ăn trưa tại tiệm Mai Phú (Quảng Nam), nơi  đây tôi thỉnh được tượng Bổn Sư bằng đá trắng rất nặng. Xe qua cầu Mỹ Chánh, ngang đại lộ kinh hoàng, qua những địa danh như : Ái Tử, cầu Hiền Lương, sông Bến  Hải...



 Máu loang đại lộ kinh  hoàng
Người người chết thảm tiếng than ngút trời
 Cầu Mỹ Chánh xác thịt rơi
Hiền Lương, Bến  Hải tả tơi xác người
Chiến chinh nay đã qua rồi
 Qua đây lòng những ngậm ngùi chuyện xưa 

  Với cái tuổi 6 bó của chúng ta, ai cũng đều trải qua cuộc chiến thảm khốc đó, ai cũng đều có mất mát người thân. Mấy chục năm chiến tranh dai dẳng mà người dân phải chịu đựng sự tàn phá quá thảm khốc, gia đình tan nát, kẻ ra đi lưu vong, người ở lại tù đày, có người vùi thây giữa lòng biển cả vì đi tìm tự do. bây giờ nhìn lại những địa danh ấy mà lòng không khỏi bồi hồi, xót đau.



  Xe dừng lại ăn tối tại tiệm Minh Ngọc, càng ra Bắc thì phòng vệ sinh càng tệ. Từ Sàigòn đến Hà Nội là 1.750   cây số, xe chạy tổng cộng là 39 tiếng. Đến Hà Nội vào ngày 5/10/2009. Hà Nội duyên dáng, lịch sự đón   chào phái đoàn bằng không khí lành lạnh thật dễ chịu. Đón xe về chùa Một Mái, chùa thuộn xóm Long Hương, Thôn T huỵ Khê, Xả Quốc  Oai, Quận Sài Sơn (Hà  Tây cũ).



sư ông trụ trì Minh Hà- chùa Một Mái (Sài Sơn) 2009

  Sư ông trụ trì thầy Minh Hà còn rất trẻ, người  Bắc, tướng cao lớn trắng trẻo, tướng hảo quang minh. Thầy được thầy Chơn Phương đưa về trụ trì chùa Một Mái. Thầy có rất nhiều tài, đút tượng và đi xây cất nhiều chùa mới theo kiểu xưa .  Khuôn viên chùa rất rộng, cổ kính trang nghiêm. Từ cổng vào là hai hàng cau, cổng chánh từ cánh đồng đi vào, dù đường lớn nhưng dân làm lò gạch đổ đất muốn choáng hết cả lối đi, khiến xe ra vào rất khó, cổng sau thì trổ ra ngoài xóm Long Hương.



Cổng chánh chùa Một Mái- Sài Sơn- 2009
  
  Chùa Một  Mái còn gọi là Bối Âm  Tự, nửa ái trong núi, nửa mái de ra ngoài, là nơi thờ ngài Từ Đạo Hạnh tu tại đây. Chánh  điện giữa thờ Tam Bảo Phật, Hàng phía trước Phật Thích Ca, Phật Di Đà, tới 3 hàng tượg Phật. Bên trái thờ Đúc Thánh Hiền,, nên ngoài hai ông Thiện và Ác, đến 1 căn nữa thờ họ Phan Huy. Ra khỏi chùa là điện thờ tam toà Thánh mẫu, thờ Đức Chúa Thượng Ngàn, thờ các quan văn, quan võ... Chùa nằm theo hình chữ tam, gỗ xếp lên nhau tạo vì, kèo đứng trên 2 cột chính không xài đinh. Vách đều bằng gỗ, những cánh cửa xếp thật dầy và nặng trịch, có lầu trống và lầu chuông.



khuôn viên chùa Một Mái

    Sư ông Minh Hà ở căn nhà dài,chính giữa nhà có bàn thờ, hai bên là 2 bộ dán gỗ, bộ dán bên phải dọn cơm cho quý thầy, tối là chỗ ngủ của anh Thiện Báo, bộ dán bên trái dọn cơm cho chúng tôi, tối là chỗ ngủ của anh Năm  Xuân. Phòng sư ông Minh Hà bên phải, phòng  bên trái của các thầy ở xa đến, được che bằng tấm màn. Một lần tôi với Nga ra tiệm tìm mua vài gói mì chay, tìm đâu cũng không có, lại gặp anh Năm Xuân trên đường đạp xe đạp về, thấy trong giỏ anh có  bia. 
  Nối liền dãy nhà dài là nhà bếp, có một Phật tử ở đó lo cơm nước, bếp bằng những cai ràng bằng sách, đặt dưới đất, nấu bằng củi, mùi khói bám đen trên vách, chị  Bếp ngồi trên cái đòn , lúc nào gương mặt cũng vui cười. Món ăn lúc nào cũng nấu nhiều món, khí hậu lúc đó hơi lạnh, nên vào bếp thấy ấm  cúng vô cùng,  thỉnh thoảng có vài Phật tử trong xóm đến làm công quả.



chị bếp của chùa Một Mái - Sài Sơn -2009

 Phía bên phải của nhà bếp chỉ một khoảng sân nhỏ là chân núi Sài Sơn, lách mình giữa con đường nhỏ, hai bên đá dựng đúng thì tới một hang động rất lớn có thể chứa vài trăm người, là nơi có những cuộc họp bí mật của ông Hồ Chí Minh . Bước lên mấy bực thì có một lổ nhỏ vừa đủ cho một người chui qua, để khi có động tỉnh thì   bác Hồ chun xuống thoát thân. Phía bên trên là căn nhà ngày xưa bác Hồ ở và làm việc.
  Song song với  căn nhà của sư ông Minh Hà, cách một cái sân, bước lên tam cấp, là căn nhà có 2 gian, 1 qian thờ vong và đúc tượng có tượng đang làm dang dở, nhiều tư tượng đã đúc xong chuẩn bị cho ngôi chùa sắp khánh thành. Một gian có 1 cái giường và tủ áo. Tôi với Nga được ưu tiên có phòng ngủ đàng hoàng. Nhà vệ sinh và nhà tắm thì bên ngàoi, cũng tạm gọi là sạch, nhưng tôi lại lau dọn cho sạch hơn, có một máy giặc nho nhỏ.



chùa Một Mái -Sài Sơn- 2009

  Bước lên những bậc đá để lên Hang Gió, có một gian hàng ban nước giải khát cho khách thập phương. Vào Hang Gió, hai bên vách đá có hai tâm bia lớn, bị mài nên chữ mờ đi không đọc được. Bên trong khá rộng,có lan cang. Đây là nơi dấu dân nhà thơ Quang Dũng tác giả bài thơ Tây Tiến được sáng tác vào năm 1948. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng có ngày mình sẽ đặt chân đến đây. Đứg trên xứ Đoài, trong Hang Gió của núi Sài Sơn tôi thẩn thao72 nhìn xuống cánh đồng lúa vàng mà tưởng niệm nhà thơ quá cố Quang Dũng.


đường lên Hang Gió-  núi Sài Sơn-2009

Ai về sông Đuống đồng Bương Cấn
Ngắm lá vàng bay đếm tháng ngày
Xài Khao, Mường Hịch xa hun hút
Mây trắng lênh đênh phủ xứ Đoài...

  Xứ Đoài  mây vẫn trắng , mà  người thơ đã ra người thiên cổ mà hồn còn gửi lại nơi đây, gió lồng lộng thổi vào se se lạnh, ấm nước trà mới   pha đã nguội. Xin dâng  một chung trà với tấm lòng thành  ái mộ, xin kính mời nhà thơ Quang Dũng cùng ta đối ẩm, kẻ hậu bối được vinh hạnh đến đây, dù không có duyên  được diện kiến, nhưng chung một tấm lòng cùng thi sĩ. Anh  Năm Xuân  chụp cho vài bô hình trong Hang Gió.  

Trà thơm một tách xin mời
Ta cùng đối ẩm với người tri âm
Người thơ giờ đã xa xăm
Xứ Đoài vẫn nhớ âm thầm người xưa !



Hang Gió Sài Sơn- 2009

  Sài Sơn cổ tích ngàn đời còn in dấu người xưa, mà những câu thơ sống mãi với thời gian, những câu thơ đã mang tại hoạ đến cho ông, những bài thơ tuyệt tác mà bị coi là quốc cấm, mà thi sĩ luôn hoài niệm nhớ về làng xưa, mang u uẩn của người xa xứ . Một người tài hoa, anh dũng như thế mà sau này bị loại khỏi quân đội, bậc  lương thấp ké m nhất, lúc nào cũng vật lộn vì sinh kế, lẩn quẩn trong nghèo đói. Ôi chua xót thay, một thi sĩ tài hoa sanh nhằm thế kỷ. 


  
    Những bài thơ Tây Tiến,  Đôi Mắt Người Sơn Tây được nhạc sĩ Phạm Đình  Chương phổ nhạc, những câu  thơ diễn tả lại một tâm trạng của một thế hệ, khiến người nghe cảm khái mà thương cho những người trai trong chiến chinh, bài thơ tâm huyết của ông đã gây tai hoạ cho cuộc đời mình.
  Những ngày cuối đời của  ông thật buồn, ốm đau không nói  được . Và đến lúc nằm chờ chết, Hà Nội mới cho in tác phẩm của ông "Mây Đầu Ô"vào  tháng 5-1986. 
  Nhà Thơ Quang Dũng (1921-1988) , từ trần ngày 14 tháng 10 năm 1988.
Bà Vì u uẩn chiều Bương Cấn
Mường Hịch xa xăm  nhớ Xứ  Đoài
 Sài Sơn, sông Đuống buồn xa  vắng
 Sông Mã ,  Xài Khao tiếc thương hoài...



 Chùa  Một Mái,  nửa mái kia như không muốn phơi sương cùng tuế nguyệt. Trong hang động mờ mờ càng tăng thêm sự huyền bí của những tượng Phật cổ. Nơi xa cách xa thị tứ, không gian vô cùng êm ả, thời gian như lắng  đọng, chỉ có trời xanh mây trắng, gió núi hương rừng, hoà cùng  tiếng chim hót vui mừng rộn rả, ngày trôi đi trong lặng lẽ.   
 Run run ngọn cỏ gió lùa
Bâng khuâng chiếc lá mới vừa chao bay
Thoáng buồn lên mắt Sơn Tây
Sài Sơn dấu tích còn đây nhớ người 

 Chiến tranh đã làm bao nhiêu người trôi dạt, và tôi cũng không qua khỏi cái Định Mệnh ấy, tôi chỉ là nhà thơ bất đắc dĩ, nhưng may mắn  sống trong một nước tự do, có thể viết những gì mình nghĩ, mà không bị gò bó. Những nỗi thiết tha, niềm cô quanh tôi đã trang trải vào Biển Nhớ, tôi không phải khốn đốn lo cái ăn, cái mặt như thi sĩ. Tôi lại có diễm phúc đến Sài Sơn ở lại chùa Một Mái, nhớ người xưa mà nước mắt rưng rưng , tôi thầm đọc  đoạn thơ của Quang Dũng trong bài  Tây Tiến. 

  Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
 Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà  Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành... 

   Tôi thường một mình lang thang lên Hang Gió, để tâm tình bay bổng với những ý nghĩ bâng quơ, về kiếp nhân sinh và số phận kiếp con tằm, nhớ thi nhân và hoài niệm về cuộc đời long đong, không may của thi sĩ. 



Hang  Gió nhìn xuống xứ Đoài- 2009 

  Cảnh chùa Một Mái âm u huyền bí,    mái chùa nửa trong núi, nửa bên ngoài,  khí lạnh  toát ra từ đá và rừng cây khiến  âm khí khá nặng nề, Thiện Báo treo võng nằm một lát, vừa chợp mắt đã hoảng hốt chạy vào vì vừa thấy có bóng người đánh thức, anh kể người đó có hàm râu, từ đó anh không dám treo võng  phía ngoài nữa.  





Năm Xuân -Thiện Báo (Chùa Một Mái- Sài Sơn 2009)

  Khởi hành lúc 5 giờ sáng đến trại     phong Vân Môn, ghé Nam Định mua mì mang theo. Bệnh viện phong da liễu thuộc về xã Vũ Vân, huyện Vũ Thư, Tỉnh Thái Bình. Giám đốc là bác sĩ Bùi  Huy Thiện.
  Đường thì xa mà lại rất xấu, quá  nhiều ổ voi làm chiếc xe cứ nhúng nhẩy như con ngựa bất kham, làm bụi tung bay mù mịt. Trại khá lớn nằm cách xa xóm làng, khá khang trang và vệ sinh, có một nhà thờ và một ngôi chùa.




  Xe ngừng ngay cổng chùa, thì mọi người đã đứng đợi trước rồi. Trong khi chuyển số mì xuống thì thầy Chơn Phương nói chuyện với giám đốc và mọi người tập trung vào chánh điện. Thầy cho treo tấm  băng rôn với hàng chữ "học bổng niềm thương" trước của chánh điện. Mọi người đều qua dãy nhà kế bên để họp. sau khi trao số tiền và mì cho ban giám đốc, thầy không quên kèm theo phần quà riêng cho giám đ ốc.  Trở  lại chánh điện, thầy hỏi thăm sức khoẻ của bệnh nhân, thì tới phần thầy ngâm thơ với tiếng sáo đệm do thầy Quảng Hiếu phụ trách. Các cụ cũng ngâm thơ đáp lễ, tôi đi phát chuỗi đeo tay cho các bệnh nhân.



  Nhìn những bàn tay cầm mirco không còn nguyên vẹn, những bàn tay đó cũng có một thời nõn nà xinh đẹp cùng người yêu tay trong tay. Mà những gương mặt kia cũng có một thời duyên dáng làm điên đảo tim ai. Cái sóng mũi dọc dừa ngày nào, giờ chỉ còn một lổ sâu  oắm, mà đôi môi nóng bỏng giờ méo mó nhăn nhúm, mà đôi mắt mộng mơ một thời, giờ chỉ còn một áng mây ảm đạm.Đôi chân kia cũng đã từng cùng ai sánh bước giữa đô  thị chen chân cùng thiên hạ, nay què quặt lê lết dắt    dìu nhau về căn phòng dành cho họ, cho cái thế giới riêng được dành cho họ, thật xa... thật  xa với cái thế giới bên ngoài.



 Làm sao qua những mùa  Đông buốt giá
Gió lạnh lùng mang rét mướt vào thơ
Em về đâu và đợi đến bao giờ
Một kiếp sống bên bờ đầy huyễn mộng
Dù bệnh tật đói nghèm em vẫn sống
Nhận bát cơm nhân đạo biết bao tình
Em nương nhờ với đời sống tâm linh
Để quán tưởng làm sao mình bị khổ
Tiếng em hát để chiều đi nức nở
Con đường dài bở ngỡ biết về đâu ?




  Nhìn lên Đức Phật với gương mặt từ bi đang nhìn xuống những con người đáng thương ấy, họ  đang trầm luân trong biển nghiệp chướng khổ đau không cùng tận ! Những bàn tay đã không còn ngón, chỉ còn lại 2 cái  cùi đang chấp vào nhau hướng lên Từ Phụ, mà thành tâm cám ơn ngài đã thương xót họ đang chơi vơi trong bể khổ mênh mông. Họ chấp tay cám ơn phái đoàn đã vượt xa ngàn dậm để đến với họ bằng tình thương và tình người nhân đạo. 




Người đứng hát em Nguyễn Công Thông

  Cảm động nhất là một thanh niên còn rất trẻ tên là Nguyễn Công Thông,  gương mặt rất tuấn tú,  đôi bàn tay không còn nguyên vẹn, em lên hát bài vọng cổ để tặng cho đoàn. Giọng hát thật truyền cảm không thua dân miền Nam, làm tôi bồi hồi xúc động, khiến tôi chạnh nhớ nhà thơ quá cố Hàn Mạc Tử.

Nghe tiếng hát bơ vơ chiều xứ Bắc
Em là ai lưu lạc đến nơi này 
Mắt em buồn nhìn vết lở  trên tay
Mà ước vọng tương lai không còn nữa
Thế giới đó những tâm hồn đóng cửa
Em tìm đâu ánh lửa sưởi tâm hồn
Em làm gì với những buổi hoàng hôn
Trong nỗi nhớ nỗi cô đơn buồn bã



  Thấy thương quá , nên tôi gặp riêng em và cho một số tiền,nhìn quanh kẻ chống nạng, người kéo lê trên mặt đất, họ dìu dắt nhau, họ nương tựa lẫn nhau, họ thông cảm cho nhau vì cùng chung căn  bệnh, căn bệnh mà  mọi người ghê tởm lánh xa và cô lập họ. Bây giờ họ có nơi ăn chớn ở đàng hoàng, không phải sống vất vưởng đầu đường xó chợ nữa. Dù không đầy đủ lắm, nhưng có mái  nhà che nắng đục mưa, không còn lo bữa đói, bữa no.



   Tháng này cái lạnh, cái rét của xứ Bắc vẫn còn, nhưng tôi thấy ấm lòng vì mình đã đến đây, tận mắt nhìn thấy những mãnh đời bất hạnh với căn  bệnh quái ác. Tôi dám cầm tay họ trân trọng mang vào xâu chuỗi vào tay mà không sợ bị lây bệnh.



   Đã lâu thầy Chơn Phương không ra, nên giám đốc lên trình bày những sinh hoạt của trại. Trại Vân Môn có tổng cộng 100 bệnh nhân, nhờ thuốc nên bệnh nhân không còn lở lói nữa, các thế hệ sau được ăn học, các em có người  đổ đạc ra bác sĩ và trở về phục vu cho trại. Trại Vân môn mỗi phần ăn chỉ có 9 ngàn đồng mỗi ngày, nếu đi ăn sáng cũng chưa đủ, trong khi ấy trại Chí Linh, Hải Dương mỗi ngày được  15 ngàn. Nhìn các cụ mà thương quá, nên tôi hứa giúp  khi nào tôi còn  ở VN,  mỗi tháng tôi sẽ giúp 100 đô để phần ăn lên được 15 ngàn.




   Từ trại phong Vân Môn, ra ăn trưa trên xe với cơm nấm muối mè, sau đó ghé thăm chùa Keo. tên chùa lấy theo tên làng Keo, tên chữ là Thần Quang Tự , thuộc địa phận xã Duy Nhất, huyện Vũ    Thư, tỉnh Thái Bình ,  theo  sử sách: 
  Thiền   sư họ Dương, huý là Minh Nghiêm, người làng Giao Thuỷ, phủ Hà Thanh, nối đời làm nghề đánh cá. Mẹ người họ Nguyễn, người ấp Hán Lý, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, tỉnh   Hải Dương. Thiền sư sanh ngày 14-9-1016 (Bính Thìn). Năm 19 tuổi đi tu tại chùa Hà Trạch cùng các sư Đạo Hạnh, Giác Hải. Năm 1060, 3 ông sang Tây Trúc tầm học phép "tâm vô lậu", sư về nước dựng chùa Nghiêm Quang. Năm 1167 vua Lý Anh Tôn đổi là Thần Quang Tự , chỉ tồn tại được 500 năm. Năm 1611 do sông Hồng sạt lỡ, một trận đại hồng thuỷ lớn đã cuốn mất ngôi chùa. Cho đến nay người đời chỉ biết chùa Thần Quang cổ qua mấy dòng miêu tả trong mấy bài văn bia hiện nay còn dựng trong chùa Keo.



   Nửa làng Dũng Nhuệ, phiêu bạt qua tả ngạn sông Hồng, theo căn cứ văn bia thời đó, có quan  Trấn Thọ  Hầu Hoàng Nhân Dũng, quê ông ở làng Từ Quán, phủ Hải Thanh cùng phu nhân là bà Lại Thị Ngọvc Lễ, xin chúa Trịnh Quang cho mời Cường Dũng Hầu Nguyễn Văn Trụ vẽ kiểu. Chúa Trịnh  chỉ cấp cho chùa 100 cây gỗ lim, tất cả vật liệu khá do nhân dân đóng góp. Phải mất 19 năm ròng rả vận động quyên góp, từ năm 1611 đến năm 1630. Đến tháng 7 năm 1960, ông mới mời 42 hiệp thợ và khởi công.
  Chỉ trong vòng 28 tháng chùa Keo đã hoàn tất, khánh thành tháng 11 năm  1963. Đặc biệt là tượng thánh Không Lộ, tạc bằng gỗ trầm hương, và được tạc vào thời Lý (1094) những tượng pháp đồ vào thời nhà Lê. Chùa được xây dựng trên xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. 


  Phần đông chùa miền Bắc hay mê tín, có ban mặc y phục sặc sỡ như đồng bóng để hầu thánh. Một đặc điểm nữa là trên đường đi những tấm bảng chỉ có một chữ lẻ loi như: "Bặt, Láng, Diễn, Nhỡn..."Tôi thắc mắc hỏi thì được biết đó là tên của xóm, chỉ dùng 1 chữ cộc lốc, cả chữ cũng hà tiện.Còn  tiếng nói của địa phương thì tôi chịu thua, khi cô Ba đầu bếp của chùa hỏi Nga:
  -Già hôm nay đã giản giản chưa?
  Được dịch lại là hôm nay cô đã đở chưa? Tôi   nói chuyện họ không hiểu và họ nói tôi càng không hiểu, thấy mình cần phải có cuốn tự điển hay phải có thông dịch. 



tháp Cửu Phẩm Liên Hoa (chùa Cỗ Lễ)

  Qua thành Nam Định, Đò Quang 15 km về phía thị trấn Cỗ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Chùa Cỗ Lễ hiệu Thần Quang Tự, xây dựng vào thế kỷ 12 thời vua Lý Thần Tôn. Trước chùa có bảo tháp Cửu Phẩm Liên Hoa cao 32 mét, có toà Phật Giáo Hội Quán Quan Âm đài, cầu núi và 2 dãy hành lang dài dài theo chùa. Toà chúng cung cao 29 mét, thờ Phật và Đức Thánh Tổ Nguyễn Minh Không bằng gỗ bạch đàn ( trầm hương trắng). Năm 1936, Hoà Thượmg Phạm Thế Long cho đúc quả chuông cao 4m20, đường kính 2m03, nặng 9.000 ngàn ký.



quả chuông nặng 9.000 ngàn ký

  Trên đường về quá trể nên ghé qua chùa mẹ thầy Minh Hà dùng trưa, chùa đang xây dang dở. Về tới chùa Một Mái thì đã quá khuya.
  Ngày thứ tư 7-10-2009, khởi hành từ chùa Một Mái lúc 9 giờ sáng, qua sông Hồng, cầu Nam Thăng Long, Nội Bài vùng Bắc Ninh. Thăm trại phong Chí Linh, Hải  Dương và Sóc Sơn.Đường qua trại phong Sóc Sơn đường rất xấu. toàn là ổ voi, con ngựa sắt được một phen tung gió làm bụi đường mù mịt... Thầy đến bất ngờ không thông báo trước, nên thầy trông thấy một bệnh nhân đang uống bia. Thầy nỗi "Bồ  Đề gai", nên đùng đùng kêu tài xế quay xe về không giúp gì cho trại.



  Tôi đã thấy thầy Chơn Phương nỗi sân khi đi dọc đường, khi người tài xế quên thông báo có hành khách dùng chay, nên tiệm ăn không chuẩn bị kịp thức ăn chay cho tươm tất. Thầy gọi chủ hãng   công ty mà khiếu nại. Lúc đó thầy giận tái cả mặt, nỗi sân đùng đùng như Trương Phi. Tội nghiệp cho tài xế phải bị khiển trách, và khi về sợ phải mất việc.  Người tài xế năn nỉ quá nên tôi với Thiện Báo thấy tội nghiệp, nên hai đứa gọi đến công ty nói giúp là chỉ một lỗi nhỏ không quan trọng lắm. 



  Một lần nỗi sân nữa với sư ông Minh Hà, trên đường đi sư ông xin thầy cho tài xế ghé qua một cửa hàng để sư ông hỏi xem vật dụng xây chùa đã làm đến đâu rồi.  Sư ông Minh Hà mời thầy cùng vào, thầy không vào mà nỗi cơn thịnh nộ làm sư ông Minh Hà tiu nghĩu trông thật là tội. Khi về lại chùa tôi nói chuyện riêng với sư ông Minh Hà và xin lỗi vì thái độ không đúng của thầy Chơn Phương. Sư ông Minh Hà cười rất hiền  điềm đạm bảo:   
  -Không sao cả! Thầy chỉ thử thách mình nhẫn tới đâu thôi!
  Tôi kính phục sức chịu đựng và cái hạnh kham nhẫn của sư ông Minh Hà và càng ngưỡng mộ hạnh nguyện đúc tượng, trùng tu và xây dựng những ngôi chùa miền Bắc.
  Từ những sự  kiện đó, tôi giảm bớt lòng kính trọng với thầy Chơn Phương, dù thầy xả thân lo cho những trại phong, công đức thì vô lượng, nhưng cái sân si kia đã đốt cháy hết cả rừng công đức.


   Ngày 8-10-2009, khởi hành từ chùa Một Mái lúc 8 giờ 30, ghé mua mì, luôn tiện tôi mua một mớ khăn cúng dường chùa Một Mái.  Thăm trại phong Hà Nam nửa tiếng, sau đó thăm trại phong Ba Sao, thuộc xã Chi  Mê, huyện Lạc Thuỷ, (Nho Quan) Hoà Bình, Hà tây, được sát nhập với Hà Nội. Bác sĩ giám đốc là Lệ Ngọc Mão, trại này khoảng trên 100 bệnh nhân, 30 người được đưa về từ trại Sóc Sơn. Trên đường về ghé thăm cậu sư ông Minh Hà, Cậu bị câm sống một mình.

  
Từ trái qua: Thanh Hiền, sư ông Mình Hà, Thiện  Báo
 thầy Chơn Phương, giám đốc trại phong, sư ông Yên Phúc  Tự,   thầy Quảng Hiếu

   Ghé lại một ngôi chùa của sư  ông Minh Hà trông coi, dùng trưa lúc 2 giờ 30. Bữa ăn thật thịnh soạn có đến hơn 10 món ăn. Cụ nào cũng cười  toe toét lộ hai hàm răng  đen nhánh.  Tôi phải chụp cho mỗi cụ vài bô hình, sau khi về rửa hình tôi gửi   tặng các cụ.Nghe chúng tôi từ miền  Nam ra  các cụ lại ao ước được một lần vào Nam cho biết,  nghe thật thương  cho cái mơ ước bé nhỏ của các cụ khó mà thực hiện được, vì miếng cơm chưa đủ thì làm sao có tiền để đi xe. Nhìn vẻ khắc khổ cùng số tuổi đời của các cụ mà lòng tôi bỗng ngậm ngùi.


  
    Ngày 9 tháng 10-2009. Xe khởi hành  lúc 8:30, đến dự lễ khánh thành chùa mới và tôi nhờ mua ca phóng   sanh. Chùa Yên Phúc Tự , thuộc làng  Yên Lỗ, xã Cẩm Yên, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Nội (Hà  Tây cũ).


     Có thể nói đường lộ Hà Nội rất hẹp, đi đâu cũng gặp ổ voi, chạy đường nào cũng tấy đang thi công. Hai bên đường cờ Phật Giáo phất phới trong bụi mù, dân làng tấp nập về chùa dự lẽ khánh thành. Sư ông  Yên Phúc Tự còn rất trẻ, dáng sư ông yểu điệu thuộc dạng ái nam, ái nữ, một thời tu tại chùa một mái với sư   ông Minh Hà. Các sư miền Bắc hay nhai trầu. 



Từ trái qua- thầy Chơn Khải- Chơn Phương- Minh Hà

  Không thấy ban tiếp tân đâu cả, đi hỏi thì ai cũng lắc đầu, chúng tôi thật bở ngỡ, xách hành lý  để tạm  một góc trên bộ ván có mấy chiếc chiếu cũ và mấy cái mền cáu bẩn, một đầu ván   đang dọn thức ăn, hỏi ra mới biết là chỗ ngủ của Phật tử. Tôi thấy  không ổn  vì đồ đạc  cùng tiền bạc mình mang  theo , nên tôi bàn với Thiện Báo và Nga, cái màn này mình phải đi ngủ khách sạn thôi, chứ thầy trụ trì thì quá bận, không muốn làm phiền. Thế là tôi trình qua với thầy Chơn Phương, tôi gọi taxi ra phố thuê khách sạn.
  



  Mướn 1 phòng 2 giường, tôi với Nga 1 còn giường kia của Thiện Báo. Phòng khá sạch sẽ, tắm rửa xong làm một giấc đến nửa đêm, bỗng  cái tivi rớt xuống đánh rầm thật  lớn làm tỉnh giấc.Hú hồn không trúng ai, đến sáng mới thông báo cho chủ khách sạn biết. Nhìn chúng tôi mặc quần áo nâu, cổ cao kiểu lãnh tụ, mang giầy bata, dáng đi mạnh bạo, gọn gàng nhanh nhẹn,  lúc đến trả phòng, anh chàng  nhân viên khách sạn chợt hỏi:
  - Mấy bác hôm nay đi đánh  võ đài ở đâu thế?
  Tôi chợt nhớ ra, hèn   chi khi chúng tôi thả bộ đi ngang chợ, mọi người nhìn chúng tôi chăm chú muốn rớt con mắt, ai cũng tránh đường không dám đi gần, thì ra họ hiểu lầm, thấy mình cũng hách quá chứ, thật là "cáo mượn oai hùm".  




Thiện Báo

  Chúng tôi kêu taxi trở lại chùa sớm, trong khi ấy 2 chiếc xe hoa đã đến chùa Một Mái để  cung thỉnh tượng đã về với cờ xí rợp trời, trống chiêng vang lừng, từng đoàn cụ bà với áo lễ sặc sở, vừa đi vừa múa. Máy chụp lia lịa, cụ nào cũng làm dáng,    có nhiều cụ đi dự lễ cảm động bật khóc, vì ngoài Bắc chùa còn rất ít,  không đủ đáp ứng cho Phật tử, nên khi có chùa nào được   xây cất thì người dân rất mừng.  




    

   Sau khi các tượng đã an vị, buổi lễ diễn ra thât long trọng, thầy  Chơn Phương làm chủ lễ kinh tụng theo trong Nam, tôi thuộc kinh nên tụng theo. Áo tràng miền  Bắc mầu nâu, áo tràng tôi cũng mầu nâu nên cũng hoà nhập theo họ. Mỗi miền nghi lễ  hơi khác nhau, tiếng chuông mõ của miền Nam thì thong thả nhẹ nhàng, miền Bắc thì chuông mõ dập dồn hơn.



  Sau phần nghi lễ thì thầy Chơn  Phương lên đọc diễn văn, lần lượt đến cấp chính quyền, những bô lão địa phương, tiếp theo là màn trình diễn ngâm thơ, rồi mới tới phần cúng phóng sanh. Tôi không biết mình làm đúng hay sai? vì đây là những người bạn nhờ tôi cúng dùm,  tôi chỉ nhờ người mua và cúng xong thì nhờ    người đi thả,  không biết số phần của những con cá ấy ra sao? hay là bị bắt lại rồi bán đi bán lại? Tôi là những người  sống ở nước ngoài và thế giới văn minh với tiện nghi vật chất,  những gì tôi biết về miền Bắc rất hạn hẹp và những gì tôi cần đều được đáp ứng rất nhiệt tình , họ quá niềm nỡ  làm tôi ái ngại, những ngọt ngào làm tôi phân vân. Tiếng chuông dồn dập không đem lại sự bình an, lòng càng thêm phiền muộn. Ôi còn đâu tiếng chuông chùa Hàn San vọng lại giữa đêm của Trương Kế. Tôi đứng đây giữa quê nhà, giữa chánh điện mà tiếng chuông sao lạc lõng chơ vơ ...


  Một hôm các thầy đi vắng, tôi ra của sau chùa qua xóm Long Hương, nhờ Phật tử Lê Thi Thu Hồng làm hướng dẫn đi tah9m động "Cắc Cớ". Và đây là nhũng tài liệu do cô cung cấp.
  Từ chùa Một Mái qua khỏi Hang Gió, mem theo sườn núi bên kia khá xa, trên cửa hang Cắc Cớ co hàng chữ nho là "Thần Quang Động". Có người cho thuê đèn pin vì động rất sâu và rất tối, phải mò mẩm từng bước đi xuống, dưới có giếng Ngạn Tiêu không có đấ rất sâu, nhìn lên đỉnh động có một dòng máu gọi là dòng máu oan hồn, đi sâu vào thì đá có hình như hoa sen mọc ngược nhỏ nước xuống đầu cậu, có câu thơ rằng:
  "Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy
  Gái chưa chồng nhớ hang Cắc Cớ"
   Nhìn xuống vực thấy sườn vực như 1 cối xây bột nhà trời, thớt to phía dưới, thờt nhỏ bên trên có dòng bột lấp lánh chảy xuống, có đầu rắn mãng xà ăn bột nhà trời bị phạt còn 1 cái đầu. Đi tiếp nữa tới thần Kim quy . Cô Hồng cho biết linh thiêng nhất là khi đi 1 chỉ, khi về được 1 lượng.



   















(xin đón đọc phần tiếp theo)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét