Bút ký: Định Mệnh
Về Miền Trung
Tác giả: Thanh Hiền-Dị Nhơn
Bell thành phố sương mù 2016
Xuất bản năm 2004
Về Miền Trung
Đường ra xứ Huế mịt mờ
Cày lên sõi đá hồn thơ nghẹn ngào
Hàng tre nước lụt đổi mầu
Trẻ em rách rưới chăn trâu bên đồng !
Trên đường dọn nhà ra Đà Nẳng, qua Tuy Hoà, Qui Nhơn mới thấy sự nghèo nàn của người dân, đất đai cằn cỗi chứ không mầu mở như miền Nam, thất đúng với bài hát của nhạc sĩ Duy Khánh (đất cày lên sõi đá). nhìn những túp lều tranh lụp xụp phải khom người chung qua cửa, dựng tạm bợ vì lũ lụt hằng năm. Nhìn lên chóp ngọn tre còn sót lại một chút lá xanh, ta có thể đoán được mực nước lụt.
Bác tài ngừng lại khi tấy đám trẻ mục đồng, các em chạy đến bu quang tôi, nhìn đứa nào cũng rách rưới te tua. Bác kêu tôi lấy bánh kẹo phát cho mấy em. Nhìn nét mặt hớn hở vui mừng với đôi măt thèm khát lâu ngày. Tuổi thơ của các em chỉ quanh quẩn nơi đèo heo hút gió này đi tìm miếng cơm manh áo, sống tận cùng nghèo khổ của con người. Các em chưa bao giờ được đến trường, thì nói chi biết được cuộc sống đầy đủ tiện nghi của thành phố. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao bác tài kêu tôi mua nhiều bánh kẹo.
Vừa qua khỏi Phù Cát, Phù Mỹ gần tới Bồng Sơn, chợt nghe tiếng súng xa xa, bác tài chợt thở dài lẩm bẩm:
-Lại đụng trận nữa rồi!
Đoàn xe bị chặn lại, mọi người xuống xe nằm dọc hai bên đườnf tránh đạn. Nằm nghe tiếng bích kích pháo, tiếng súng đại liên của hai bên giao tranh, chẳng biết bao nhiêu người phải nhận lãnh những viên đạn vô tình ấy? Khi cuộc chiến tàn sẽ không khỏi có người chết, dù bên này hay bên kia, sẽ có người mẹ đau khổ vì mất con, có những người vợ đau thương vì mất chồng, có những đứa trẻ bơ vơ vì mất cha, mất anh em ruột thịt.
-Lại đụng trận nữa rồi!
Đoàn xe bị chặn lại, mọi người xuống xe nằm dọc hai bên đườnf tránh đạn. Nằm nghe tiếng bích kích pháo, tiếng súng đại liên của hai bên giao tranh, chẳng biết bao nhiêu người phải nhận lãnh những viên đạn vô tình ấy? Khi cuộc chiến tàn sẽ không khỏi có người chết, dù bên này hay bên kia, sẽ có người mẹ đau khổ vì mất con, có những người vợ đau thương vì mất chồng, có những đứa trẻ bơ vơ vì mất cha, mất anh em ruột thịt.
Em về đâu.. em về đâu?
Nhà tan trong lửa máu đào mẹ tuôn
Xác cha vất vưởng ngoài nương
Xác anh, xác chị dưới truông tan tành
Hay là máu đỏ do bom đạn cày
Hoài Ân bỏ xác chiều nay
Đường về An Lão vùi thây anh hùng
Phía Bắc Quảng Tín giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông là Đông Hải, phía Nam giáp hai tỉnh Quãng Ngãi và Kontum, phía tây giáp biên giới Lào. Tỉnh lỵ đặt tại Tam Kỳ. Phía Tây rừng núi thuộc Trường Sơn, vùng đồng bằng chạy dọc theo phía Đông. Hai quốc lộ 1 và 4 nối Quảng Tín với các tỉnh khác. Có 2 phi trường ở Tam Kỳ và Dok Nhe. Di tích của Chàm là tháp Bường An, Chiên Đàn. Thổ sản đặc biệt của Tam Kỳ là đậu đen xanh lòng và mạch nha.
Ngũ Hành Sơn-Đà Nẳng
Chiều về ghé biển Mỹ Khê
Ngũ Hành Sơn đứng cận kề bên nhau
Tàng Chân thạch nhũ muôn mầu
Đây Huyền Không động kinh cầu còn vang
Chập chùng mây trắng đầu non
Sông Ly nức nở Thu Bồn buồn theo
Quanh co dốc núi cheo leo
Xe bò lên dốc qua đèo Hải Vân
Nhà tan trong lửa máu đào mẹ tuôn
Xác cha vất vưởng ngoài nương
Xác anh, xác chị dưới truông tan tành
Quốc lộ 1 là con đường chính đầy bụi bậm, từng đoàn xe thiết giáp vẻ ngôi sao gắn súng đại liên với những người lính Mỹ với tư thế sẵn sàng ngả đạn. Quận Hoài An, Bồng Sơn, An Lão tôi chỉ biết qua tin tức chiến trường, hôm nay chính mắt nhìn thấy thị trấn Bồng Sơn điêu tàn, tang tóc bởi cảnh tàn phá của đạn bom. Bồng Sơn đón chào tôi bằng những tràng bích kích pháo của Lữ Đoàn 173 Nhảy Dù Hoa Kỳ, pháo yểm trợ từ phi trường quân sự Bồng Sơn. Mấy chiếc trực thăng vũ trang xà xuống thấp lượn mấy vòng trên đều khách bộ hành đang nằm rạp bên đường.
Nắng chiều nhuộm đỏ Bồng SơnHay là máu đỏ do bom đạn cày
Hoài Ân bỏ xác chiều nay
Đường về An Lão vùi thây anh hùng
Chiều Bồng Sơn tang tóc, con đường im lìm ,vạn vật chết rã rời trong nắng chiều nhuộm đỏ Trường Sơn. Núp dưới bờ cỏ nghe tiếng đạn pháo vang trời, tiếng đại bác xé nát không gian, từng tràng đại liên nổ dòn như pháo , xa xa bên kia vùng địch chiếm đóng khói đang bốc lên cao. Một lát sau tiếng phản pháo im bặt, lại có lệnh cho đi, kìa những ngôi nhà đổ nát, nọ vài căn nhà trơ lại nhựng cây cột cháy đen xiêu vẹo, từng đụn khói lam ngậm ngùi ưu tư bay lên.
Xác của bộ đội, xác dân nằm dài hai bên đường vướng vít uất nghẹn. Máu ươn ướt lấp lánh trên mặt đường nhựa đọng lại một mầu đen sạm, đó là chứng tích tàn nhẫn của chiến tranh. Phía trước con đường còn đầy nguy hiểm đang rình rập đợi chờ, nhưng lệnh bắt buộc đoàn xe phải đi. Tới giờ giới nghiêm, đoàn xe phải dừng lại qua đêm , mọi người dật dờ chợp mắt.
Sáng hôm sau, khi xe đến Chu Lai, Quảng Ngãi, càng gần ra Trung người dân càng khốn khổ , chiếc xe gắn máy được ché biến như chiếc xe nhỏ, có thể chở được nhiều người cùng giống gánh. Gần đến Tam Kỳ bác tài xế lo ngại bảo:
-Ở đây họ xét gắt lắm! Xe honda không có giấy tờ thế nào cũng bị tịch thu!
Tôi đánh liều:
-Cũng đành vậy chớ biết sao!
Phía Bắc Quảng Tín giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông là Đông Hải, phía Nam giáp hai tỉnh Quãng Ngãi và Kontum, phía tây giáp biên giới Lào. Tỉnh lỵ đặt tại Tam Kỳ. Phía Tây rừng núi thuộc Trường Sơn, vùng đồng bằng chạy dọc theo phía Đông. Hai quốc lộ 1 và 4 nối Quảng Tín với các tỉnh khác. Có 2 phi trường ở Tam Kỳ và Dok Nhe. Di tích của Chàm là tháp Bường An, Chiên Đàn. Thổ sản đặc biệt của Tam Kỳ là đậu đen xanh lòng và mạch nha.
Tam Kỳ có đậu xanh lòng
Đạn bom cày nát mấy giồng đậu xanh
Xóm thôn vắng ngắt lạnh tanh
Không người lai vãng mái tranh tiêu điều
Đến Tam Kỳ đoàn xe bị chận lại vì bởi lệnh giới nghiêm. Cầu Tam Kỳ bị gài mìn nên phải đợi gở mìn, thôn xóm vắng hoe không một bóng người, trông lạnh rợn người như xóm nhà ma trong Liêu Trai Chí Dị. Nằm đợi đến nửa ngày mà mìn vẫn chưa gở, họ lại ra lệnh cho xe chạy, mọi người đều nín thở, từng chiếc xe bò nhè nhẹ qua cầu, mọi người hình như nín thở. Trên đầu thì tiếng phản lực cơ vút ngang bay về phía Bắc. Máy bay Mỹ dội bom giết người miền Bắc, VC pháo kích giết người miền Nam. Trâu bò hút nhau ruồi muỗi chết!
Tam Kỳ qua đó một chiều
Dưới cầu mìn đặt xe liều chạy qua
Nhìn quanh giống xóm nhà ma
Thành phố Đà Nẳng thuộc về tỉnh Quảng Nam, phía Bắc giáp Thừa Thiên, phía Đông giáp biển Đông Hải, phía Nam giáp tỉnh Quảng Tín, phía Tây giáp Lào. Tỉnh lỵ là Hội An , cách thành phố Sài gòn 970 cây số về hướng Bắc. Đất Quảng Nam chia 3 phần rõ rệt, gồm núi non, đồng bằng và duyên hải. Đất vùng núi mầu đỏ chứa phún sa thạch, vùng đồng bằng là đất phù sa lẫn đất sét và vùng duyên hải với những bãi cát.
Phố cổ Hội An (Đà Nẳng)
Về phía bắc, dãy Hoành Sơn đâm ngang ra biển tạo thành biên giới giữa 2 tỉnh Quảng Nam và Thừa Thiên, đó là vùng núi Hải Vân gồm :đèo Hải Vân cao 496 thước ăn thông qua 2 tỉnh. Phía Đông Bắc là vũng Đà Nẳng, có bán đảo Sơn Trà, ngọn núi cùng tên cao 693 thước. Ngoài khơi là hòn Sơn Trà che kín gió. Cửa biển Đà Nẳng trở thành trở thành hải cảng quan trọng rất tiện lợi cho tàu bè. Xa hơn là cù lao Chàm, về phía tây là dãy Trường Sơn hùng vĩ hiểm trở.
Sân bay Đà Nẳng được xây dựng từ năm 1940. Trong thời gian chiến tranh cho đến năm 1975, sân bay Đà Nẳng là căn cứ Không Quân của quân đội Mỹ và Không Quân Việt Nam Cộng Hoà. Tháng 3-1965, các đơn vị Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đổ bộ vào Đà Nẳng và thiết lập ở đây một căn cứ hỗn hợp lớn. Năm 1967, Đà Nẳng được ấn định là thành phố trực thuộc trung ương và xác định mục tiêu xây dựng thành trung tâm chính trị, quân sự, văn hoá cho vùng 1 và vùng 2 chiến thuật.
Mỹ cho xây dựng các căn cứ quân sự và kết cấu hạ tầng như : sân bay, cảng, kho bãi, đường xá, công trình công cộng, cơ sở thông tin liên lạc, lập tín dụng ngân hàng, khu kỷ nghệ Hoà Khánh sản xuất oxygen, bột giặt, dệt...
căn cứ quân sự của Mỹ
Từ năm 1965, nơi đây đã trở thành cứ điểm quân sự của Mỹ và VNCH, xây dựng thành khu liên hợp quân sự lớn nhất miền Trung.
Làng quê Đà Nẳng nhìn từ đỉnh núi Ngũ Hành Sơn, nằm cách trung tâm thành phố khoảng 5 km về hướng Đông Nam. Ngũ hàng Sơn bao gồm 6 ngọn núi : Kim Sơn,Mộc Sơn,Thuỷ Sơn, Dương Hoà Sơn, Âm Hoả Sơn và Thổ Sơn, tượng trưng cho 5 yếu tố của vủ trụ (Ngũ hành) . Trong lòng núi có nhiều hang động đẹp và nhiều chùa. Dưới chân núi có làng nghề đá Non Nước nỗi tiếng. bên cạnh là bãi biển Non Nước còn rất hoang sơ.
Chiều về ghé biển Mỹ Khê
Ngũ Hành Sơn đứng cận kề bên nhau
Tàng Chân thạch nhũ muôn mầu
Đây Huyền Không động kinh cầu còn vang
Đèo Hải Vân có tên là đèo Ải Vân (vì trên đỉnh xưa kia có một cửa ải) vì đỉnh thường có mây che phủ, cao 500 mét so với mực nước biển, dài 20 m, cắt ngang dãy núi Bạch Mã là một phần của dãy Trường Sơn chạy cách ra sát biển, ở giữa địa giới tỉnh Thừa Thiên-Huế (ở phía bắc) và thành phố Đà Nẳng ở phía Nam.
Chập chùng mây trắng đầu non
Sông Ly nức nở Thu Bồn buồn theo
Quanh co dốc núi cheo leo
Xe bò lên dốc qua đèo Hải Vân
Theo sử liệu, trước năm Bính Ngọ(1306) vùng đất có đèo Hải Vân thuộc về hai châu Ô, Rí của vương quốc Chămpa (Chiêm Thành).Sau khi vua Chămpa là Chế Mân cắt làm sính lễ cầu hôn công chúa Huyền Trân đời Trần thì ngọn đèo chính là ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành.
Về Chiêm một gái Huyền Trân
Hai châu Ô, Rí vua dâng đổi nàng
Khắc Chung hộ tống kiệu vàng
Đưa nàng công chúa lên đàng về Chiêm !
Khoảng một thế kỷ sau, vào năm Nhâm Ngọ (1402) nhà Hồ dưới triều Hồ Hán Thương sai tướng Đỗ Mãn đem quân sang đánh Chiêm Thành, vua nước ấy là Ba Đích Lại(Java Sinha Varmanl) phải cắt đất Chiêm Đông và Cổ Luỹ để cầu hoà. Kể từ đó, cả vùng đất có đèo Hải Vân thuộc hẳn về nước Đại Ngu (VN ngày nay) và trở thành ranh giới của 2 xứ Thuận Hoá và Quảng Nam.
Chiều về ghé biển Tiên Sa
Mưa buồn giăng kín Sơn Trà quạnh hiu
Mưa qua Cẩm Lệ tiêu điều
Thuyền ra cử Đại mưa chiều lê thê
Ngọn Tiên Sa một nhánh của Trường Sơn Đông, sông Hàn bắt nguồn từ Trường Sơn đổ ra Thái Bình. Năm 1962 đất Quảng Nam bị cắt bớt để thành lập tỉnh mới là Quảng Tín, rang giới được quy địh từ đèo Hải Vân đến sông Rù Rì. Quảng Nam có phi trường lớn tại Đà Nẳng. Hai quốc lộ 1 và 14, cùng liên tỉnh lộ 4 là trục giao thông nối liền với các tỉnh khác.
Trạm vào Đà Nẳng, nhân viên công lực chỉ xét sơ qua, thế là tôi đi trót lọt. Căn nhà thuê toạ lạc trân đường Phan Chu Trinh, ngó xéo qua nhà thờ Cơ Đốc, tôi không nhớ số mấy. Hà thuê trên lầu, tôi thuê tầng dưới. Hà ngày trước bồ với Jack thuê nhà Thiếu Tá Tôn Thất Lăng(Nha Trang). Khi Jack về nước Hà có bồ khác và dọn về Đà Nẳng.
Tôi mừng vì đi đến nơi về đến chốn. Chiều hôm ấy tôi đón xích lô đến sở làm của Sandy, lối China Beach là PX (Post Exchange) lớn nhất Đà Nẳng. Cảnh sinh hoạt trên phố khiến ta như đi ngược lại thế kỷ trước , đó là người kéo xe, còn xe ôm thì gọi là (xe thồ).
Gió Đông buốt lạnh sông Hàn
Chiều về ghé lại Hoà Vang thương thầm
Trông về Bát Nhị,Hương Lam
Anh hùng hai mộ Đỗ, Trần vinh danh
Chiều Đà thành cuối Đông, chiếc xe thồ chạy qua sông Hàn ngọn gió bấc rét căm căm, trong khi tôi mặc áo lạnh thật dầy mà cái lạnh như cắt bầm da thịt, còn bác xe thồ co ro trong manh áo mỏng manh, môi tím ngắt vì lạnh, khiến tôi chợt thương thầm.
Ngừng xe bác thở ra bốc khói, giọng đứt khoảng:
-Mệt... đứt... chộ mệ...!
Sandy làm an ninh cho PX, anh thường đi công tác xa có khi ra Quảng Trị, Phú Bài, Phù Cát, Qui Nhơn... những nơi có căn cứ của Mỹ. Trưởng phòng an ninh là ông James A. Wokman và ông Mel Slade một Trung tá hồi hưu thuộc Lực Lượng Đặc Biệt. Ông Mel thì mập dềnh dàng còn chị Đức vợ ông thì ốm nhom như cây tre. Nhà chị có một cơ sở nhỏ sản xuất áo len đan máy, có vài nhân viên phụ việc. Đến thăm chị, chị tặng toi chiếc áo len trắng. Trong văn phòng an ninh tôi chỉ biết vài người như Bob Ness và vài cô thư ký người Việt, một cô tên là Phạm Phương Khanh.
Sau ngày đưa ông Táo, tôi thu xếp về thăm con, anh hỏi bao giờ thì anh mới hân hạnh được gặp má tôi, vì chúng tôi đã chính thức là vợ chồng nên anh rất muốn gặp má và gia đình. Tôi viện cớ là má tôi rất quê mùa, nếu rước má phải đưa về, thì phải tốn hai lần vé máy bay. Anh bảo tốn bao nhiêu cũng được. Tôi không dám hứa chắc với anh, nếu má bằng lòng thì tôi sẽ đưa ra Đà Nẳng.
Tôi trình bày với má là chúng tôi đã có hôn thú, chỉ vì công việc và tình hình không an ninh nên anh không thể về để ra mắt má cho phải đạo con rể, anh ao ước được gặp má. Má trả lời không suy nghĩ:
-Tao chưa đi máy bay lần nào! Đi cho biết cũng được! Con út đi hông? Nói chị Sáu bây dìa coi nhà dùm!
Thế là tôi phải lên Saigòn mua thêm hai vé khứ hồi đi vào mùng 4 Tết. Chuyến đi có phần ăn trưa phần ăn có phần thịt bò bít tếch, má tấm tắc khen:
-Máy bay êm quá chừng hỗng bị nhồi như đi xe! Lại còn cho ăn sang nữa! Họ có tính tiền thêm hông đây?
Tôi không nín được cười:
-Má dùng đi! Họ không có tính tiền thêm đâu mà má lo!
Nhìn má quê mùa mà tôi thấy thương vô hạn. Có những người xấu hổ vì cha mẹ mình nhà quê, với tôi quê không là cái tội, chỉ tội là cha mẹ làm việc không lương thiện. Có những bà mẹ buôn gánh bán bưng nuôi cho con ăn học thành tài, thế má khi làm được ông này bà kia, họ cảm thấy xấu hổ khi cha mẹ mình quê mùa, nghèo khó. Họ che dấu lai lịch, sợ mọi người biết mình từ giai cấp thấp nhất trong xã hội, những đứa con như thế dù có thành danh, chỉ làm nhơ thêm cái xã hội quá phức tạp này.
Nhà mới dọn nên còn bề bộn, đêm đến phải lấy thêm mền vì trời lạnh. Hôm sau Sandy từ Huế về, khệ nệ ôm chồng nón lá bài thơ với kẹo mè sửng. Thấy má với út nét vui mừng thoáng trên mắt anh. Tôi phải làm thông dịch vì anh rất biết ít tiếng Việt, không thôi má với út phải nói chuyện mõi tay. Thế là giải toả hết những thắc mắc nghi ngờ, má tôi không là người mà Hội giới thiệu trong Chợ Lớn, bởi mà và em gái tôi trông quê mùa như tôi đã nói.
Út- thân mẫu (Đà Nẳng 1972)
Má chỉ chơi một tuần rồi tôi phải đưa về, anh mua tặng đủ thứ quà, má thích nhất là chồng nón lá Huế. Về đến nhà chị Sáu cho biết ngày mùng 4 chị Bạch với Xuyên con của dì Năm lên thăm, biết tôi rước má đi Đà Nẳng chơi thế nào dì năm cũng phân bì.
Từ ngày anh Sáu Hoa qua đời, chị sanh đứa con trai đặt tên là Phương. Hai đứa trai lớn Sáng và Điệp thường về phụ công việc ruộng nương vườn tược. Tôi thương chị và xót xa thương chị goá bụa vất vã, nhìn chị ngồi sàng gạo vừa đưa con, nó đã mồ côi từ trong bụng mẹ. Còn cháu Phượng thì hay khóc khi gặp tôi vì tủi thân nhớ đến cha.
Nàng hương gạo mới đầu mùa
Thơm lừng phấn cám mới vừa giả xong
Nàng hương chị nấu giỗ chồng
Chị sàng thêm những long đong phận mình
Đời chị thật long đong cao số, chị lại bước thêm bước nửa, mà tôi và má chị không bằng lòng vì chị làm bé cho người hàng xóm. Khi có thêm một đứa con thì lại bỏ nhau. Rồi chị lại bước thêm bước nửa rồi khi có thêm 3 đứa con với người chồng thứ ba thì chồng chị qua đời. Chị lại goá bụa lần nữa mà có tới 3 dòng con, nhờ má tôi giúp đở và nhờ chị giỏi dắn mới nuôi nổi đàn con 9 đứa thật là quá vất vã.
Sau khi đưa má và út về tôi trở lại Đà Nẳng, Chị Đức vợ ông Mel thấy Sandy thường hay đi công tác xa mới đem đến cho tôi một đứa bé gái tuổi khoảng 15 để phụ việc nhà. Nó dân Đà Nẳng trong quê nên tiếng nói địa phương rất nặng, nên tôi nói tiếng miền Nam nó không hiểu, thành ra tôi phải nói tiếng Quảng với nó. Có lẽ trước đó nó chỉ biết coi em nên tôi phải dạy nó giặt ủi, nó quá khờ dạy đâu thì quên đó, phần đi chợ nấu ăn tôi phải lo.
Một bữa nọ tôi làm món cua rang muối, chỉ nó cách đâm cua dưới yếm, dặn nó để một lát cua chết rồi tôi sẽ chỉ cách làm. Vừa lên lầu đang nói chuyện với Hà thì tôi nghe nó thét lên, tôi chạy xuống thì thấy nó ôm bàn tay mà máu chảy ròng ròng, cái đầu ngón tay gần sứt mà còn ráng nói:
-Không răng mô!
Mặt thì nhăn nhó rồi nói tiếp:
-Nếu con biết như rứa thì...
Nó bỏ lửng câu nói, tôi tiếp theo:
-Thì mi mần răng? Rứa mi tưởng ngón tay mi bằng thép hỉ?
Nó nhìn mấy con cua nằm im tưởng rằng cua đã chết, đáng lẽ lấy đủa khèo thử mà không lấy lại lấy tay khèo thử, không ngờ cua chưa chết nên kẹp ngón tay nó gần sứt, cả mấy tuần vẫn chưa nhẹ, sau đó phải cho nghĩ việc vì dạy hoài không được.
(Xin đón đọc Định Mệnh
Đại lộ kinh hoàng 1972)