Thứ Bảy, 16 tháng 1, 2016

Định Mệnh- Về Miền Trung


     Bút ký:      Định Mệnh

     Về Miền Trung

     Tác giả:   Thanh Hiền-Dị Nhơn

     Bell thành phố sương mù 2016

      Xuất bản năm  2004








Về Miền Trung


Đường ra xứ Huế mịt mờ
Cày lên sõi đá hồn thơ nghẹn ngào
Hàng tre nước lụt đổi mầu
Trẻ em rách rưới chăn trâu bên đồng !

  Trên đường dọn nhà ra Đà Nẳng, qua Tuy Hoà, Qui Nhơn mới thấy sự nghèo nàn của người dân, đất đai cằn cỗi chứ không mầu mở như miền Nam, thất đúng với bài hát của nhạc sĩ Duy Khánh (đất cày lên sõi đá). nhìn những túp lều tranh lụp xụp phải khom người chung qua cửa, dựng tạm bợ vì lũ lụt hằng năm. Nhìn lên chóp ngọn tre còn sót lại một chút lá xanh, ta có thể đoán được mực nước lụt.
  Bác tài ngừng lại khi tấy đám trẻ mục đồng, các em chạy đến bu quang tôi, nhìn đứa nào cũng rách rưới te tua. Bác kêu tôi lấy bánh kẹo phát cho mấy em. Nhìn nét mặt hớn hở vui mừng với đôi măt thèm khát lâu ngày. Tuổi thơ của các em chỉ quanh quẩn nơi đèo heo hút gió này đi tìm miếng cơm manh áo, sống tận cùng nghèo khổ của con người. Các em chưa bao giờ được đến trường, thì nói chi biết được cuộc sống đầy đủ tiện nghi của thành phố. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao bác tài kêu tôi mua nhiều bánh kẹo.
  Vừa qua khỏi Phù Cát, Phù Mỹ gần tới Bồng Sơn, chợt nghe tiếng súng xa xa, bác tài chợt thở dài lẩm bẩm:
  -Lại đụng trận nữa rồi!
 Đoàn xe bị chặn lại, mọi người xuống xe nằm dọc hai bên đườnf tránh đạn. Nằm nghe tiếng bích kích pháo, tiếng súng đại liên của hai bên giao tranh, chẳng biết bao nhiêu người phải nhận lãnh những viên đạn vô tình ấy? Khi cuộc chiến tàn sẽ không khỏi có người chết, dù bên này hay bên kia, sẽ có người mẹ đau khổ vì mất con, có những người vợ đau thương vì mất chồng, có những đứa trẻ bơ vơ vì mất cha, mất anh em ruột thịt.




Em về đâu.. em về đâu?
Nhà tan trong lửa máu đào mẹ tuôn
Xác cha vất vưởng ngoài nương
Xác anh, xác chị dưới truông tan tành


  Quốc lộ 1 là con đường chính đầy bụi bậm, từng đoàn xe thiết giáp vẻ ngôi sao gắn súng đại liên với những người lính Mỹ với tư thế sẵn sàng ngả đạn. Quận Hoài An, Bồng Sơn, An Lão tôi chỉ biết qua tin tức chiến trường, hôm nay chính mắt nhìn thấy thị trấn Bồng Sơn điêu tàn,  tang tóc bởi cảnh tàn phá của đạn bom. Bồng Sơn đón chào tôi bằng những tràng bích kích pháo của Lữ Đoàn 173 Nhảy Dù Hoa Kỳ, pháo yểm trợ từ phi trường   quân sự Bồng Sơn. Mấy chiếc trực thăng vũ trang xà xuống thấp lượn mấy vòng trên đều khách bộ hành đang nằm rạp bên đường.




Nắng chiều nhuộm đỏ Bồng Sơn
Hay là máu đỏ do bom đạn cày
Hoài Ân bỏ xác chiều nay
Đường về An Lão vùi thây anh hùng


  Chiều Bồng Sơn tang tóc, con đường im lìm ,vạn vật chết rã rời trong nắng chiều nhuộm đỏ Trường Sơn. Núp dưới bờ cỏ nghe tiếng đạn pháo vang trời, tiếng đại bác xé nát không gian, từng tràng đại liên nổ dòn như pháo , xa xa bên kia vùng địch chiếm đóng khói đang bốc lên cao. Một lát sau tiếng phản pháo im bặt, lại có lệnh cho đi, kìa những ngôi nhà  đổ nát, nọ vài căn nhà trơ lại nhựng cây cột cháy đen xiêu vẹo, từng đụn khói lam ngậm ngùi ưu tư bay lên.






   Xác của bộ đội, xác dân nằm dài hai bên đường vướng vít uất nghẹn. Máu ươn ướt lấp lánh trên mặt đường nhựa đọng lại một mầu đen sạm, đó là chứng tích tàn nhẫn của chiến tranh. Phía trước con đường còn đầy nguy hiểm đang rình rập đợi chờ, nhưng lệnh bắt buộc đoàn xe phải đi. Tới giờ giới nghiêm, đoàn xe phải  dừng lại  qua đêm , mọi người dật dờ chợp mắt. 
  Sáng hôm sau, khi xe đến Chu Lai, Quảng Ngãi, càng gần ra Trung người dân càng khốn khổ , chiếc xe gắn máy được ché biến như chiếc xe nhỏ, có thể chở được nhiều người cùng giống gánh. Gần đến Tam Kỳ bác tài xế lo ngại bảo:
  -Ở đây họ xét gắt lắm!  Xe honda không có giấy tờ thế nào cũng bị tịch thu!
  Tôi đánh liều:
 -Cũng đành vậy chớ biết sao!



  Phía Bắc Quảng Tín giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông là Đông Hải, phía Nam  giáp hai tỉnh Quãng Ngãi và Kontum, phía tây giáp biên giới Lào. Tỉnh lỵ đặt tại Tam Kỳ. Phía Tây rừng núi thuộc Trường Sơn, vùng đồng bằng chạy dọc theo phía Đông. Hai quốc lộ 1 và 4 nối Quảng Tín với các tỉnh khác. Có 2 phi trường ở Tam Kỳ và Dok Nhe. Di tích của Chàm là tháp Bường An, Chiên Đàn. Thổ sản đặc biệt của Tam Kỳ là đậu đen xanh lòng và mạch nha.


Tam Kỳ có đậu xanh lòng
Đạn bom cày nát mấy giồng đậu xanh
Xóm thôn vắng ngắt lạnh tanh
Không người lai vãng mái tranh tiêu điều

  Đến Tam Kỳ  đoàn xe bị chận lại vì bởi lệnh giới nghiêm. Cầu Tam Kỳ bị gài mìn nên phải đợi gở mìn, thôn xóm vắng hoe không một bóng người, trông lạnh rợn người như xóm nhà ma trong Liêu Trai Chí Dị. Nằm đợi đến nửa ngày mà mìn vẫn chưa gở, họ lại ra lệnh cho xe chạy, mọi người đều nín thở, từng chiếc xe bò nhè nhẹ qua cầu, mọi người hình như nín thở. Trên đầu thì tiếng phản lực cơ vút ngang bay về phía Bắc. Máy bay Mỹ dội bom giết người  miền Bắc, VC pháo kích giết người miền Nam. Trâu bò hút nhau ruồi muỗi chết!
Tam Kỳ qua đó một chiều
Dưới cầu mìn đặt xe liều chạy qua
Nhìn quanh giống xóm nhà ma
Khói lam chiều vắng mái nhà chơ vơ





(Ngũ Hành Sơn- Đà Nẳng)


  Thành phố Đà Nẳng thuộc về tỉnh Quảng Nam, phía Bắc giáp Thừa Thiên, phía Đông giáp biển Đông Hải, phía Nam giáp tỉnh Quảng Tín, phía Tây giáp Lào. Tỉnh lỵ là Hội An , cách thành phố Sài gòn 970 cây số về hướng Bắc. Đất Quảng Nam chia  3 phần rõ rệt, gồm núi non, đồng bằng và duyên hải. Đất vùng núi mầu đỏ chứa phún sa thạch, vùng đồng bằng là đất phù sa lẫn đất sét và vùng duyên hải với những bãi cát.



Phố cổ Hội An (Đà Nẳng)


 Về phía bắc, dãy Hoành Sơn đâm ngang ra biển tạo thành biên giới giữa 2 tỉnh Quảng Nam và Thừa Thiên, đó là vùng núi Hải Vân gồm :đèo Hải Vân cao 496 thước ăn thông qua 2 tỉnh. Phía Đông Bắc  là vũng Đà Nẳng, có bán đảo Sơn Trà, ngọn núi cùng tên cao 693 thước. Ngoài khơi là hòn Sơn Trà che kín gió. Cửa biển Đà Nẳng trở thành trở thành hải cảng quan trọng rất tiện lợi cho tàu bè. Xa hơn là cù lao Chàm, về phía tây là dãy Trường Sơn hùng vĩ hiểm trở.
  Sân bay Đà Nẳng được xây dựng từ năm 1940. Trong thời gian chiến tranh cho đến năm 1975, sân bay Đà Nẳng là căn cứ Không Quân của quân đội Mỹ và Không Quân Việt Nam Cộng Hoà. Tháng 3-1965, các đơn vị Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đổ bộ vào Đà Nẳng và thiết lập ở đây một căn cứ hỗn hợp lớn. Năm 1967, Đà Nẳng được ấn định là thành phố trực thuộc trung ương và xác định mục tiêu xây dựng thành trung tâm chính trị, quân sự, văn hoá cho vùng 1 và vùng 2 chiến thuật.
  Mỹ cho xây dựng các căn cứ quân sự và kết cấu hạ tầng như : sân bay, cảng, kho bãi, đường xá, công trình công cộng, cơ sở thông tin liên lạc, lập tín dụng ngân hàng, khu kỷ nghệ Hoà Khánh sản xuất oxygen, bột giặt, dệt...



căn cứ quân sự của Mỹ

  Từ năm 1965, nơi đây đã trở thành cứ điểm quân sự của Mỹ  và VNCH, xây dựng thành khu liên hợp quân sự lớn nhất miền Trung.
  Làng quê Đà Nẳng nhìn từ đỉnh núi Ngũ Hành Sơn, nằm cách trung tâm thành phố khoảng 5 km về hướng Đông Nam. Ngũ hàng Sơn bao gồm 6 ngọn núi : Kim Sơn,Mộc Sơn,Thuỷ Sơn, Dương Hoà Sơn, Âm Hoả Sơn và Thổ Sơn, tượng trưng cho 5 yếu tố của vủ trụ (Ngũ hành) . Trong lòng núi có nhiều hang động đẹp và nhiều chùa. Dưới chân núi có làng nghề đá Non Nước nỗi tiếng. bên cạnh là bãi biển Non Nước còn rất hoang sơ.




Ngũ Hành Sơn-Đà Nẳng

Chiều về ghé biển Mỹ Khê
Ngũ Hành Sơn đứng cận kề bên nhau
Tàng Chân thạch nhũ muôn mầu
Đây Huyền Không động kinh cầu còn vang

   Đèo Hải Vân  có tên là đèo Ải Vân (vì trên đỉnh xưa kia có một cửa ải) vì đỉnh thường có mây che phủ, cao 500 mét so với mực nước biển, dài 20 m, cắt ngang dãy núi Bạch Mã  là một phần của dãy Trường Sơn chạy cách ra sát biển, ở giữa địa giới tỉnh Thừa Thiên-Huế (ở phía bắc) và thành phố Đà Nẳng ở phía Nam.




Chập chùng mây trắng đầu non
Sông Ly nức nở Thu Bồn buồn theo
Quanh co dốc núi cheo leo
Xe bò lên dốc qua đèo Hải Vân


 Theo sử liệu, trước năm Bính Ngọ(1306) vùng đất có đèo Hải Vân thuộc về hai châu Ô, Rí của vương quốc Chămpa (Chiêm Thành).Sau khi vua Chămpa là Chế Mân cắt làm sính lễ cầu hôn công chúa Huyền Trân đời Trần thì ngọn đèo chính là ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành.

Về Chiêm một gái Huyền Trân
Hai châu Ô, Rí vua dâng đổi nàng
Khắc Chung hộ tống kiệu vàng
Đưa nàng công chúa lên đàng về  Chiêm !

  Khoảng một thế kỷ sau, vào năm Nhâm Ngọ (1402) nhà Hồ dưới triều Hồ Hán Thương sai tướng Đỗ Mãn đem quân sang đánh Chiêm Thành, vua nước ấy là Ba Đích Lại(Java Sinha Varmanl) phải cắt đất Chiêm Đông và Cổ Luỹ để cầu hoà. Kể từ đó, cả vùng đất có đèo Hải Vân thuộc hẳn về nước Đại Ngu (VN ngày nay) và trở thành ranh giới của 2 xứ Thuận Hoá và Quảng Nam.




Chiều về ghé biển Tiên Sa 
Mưa buồn giăng kín Sơn Trà quạnh hiu
Mưa qua Cẩm Lệ tiêu điều
Thuyền ra cử Đại mưa chiều lê thê


   Ngọn Tiên Sa một nhánh của Trường Sơn Đông, sông Hàn bắt nguồn từ Trường Sơn đổ ra Thái Bình. Năm 1962 đất Quảng Nam bị cắt bớt  để thành lập tỉnh mới là Quảng Tín, rang giới được quy địh từ đèo Hải Vân  đến sông Rù Rì. Quảng Nam có phi trường lớn tại Đà Nẳng. Hai quốc lộ 1 và 14, cùng liên tỉnh lộ 4 là trục giao thông nối liền với các tỉnh khác.





   Trạm vào Đà Nẳng, nhân viên công lực chỉ xét sơ qua, thế là tôi đi trót lọt. Căn nhà thuê toạ lạc  trân đường Phan Chu Trinh, ngó xéo qua nhà thờ Cơ Đốc, tôi không nhớ số mấy. Hà thuê trên lầu, tôi thuê tầng dưới. Hà ngày trước bồ với Jack thuê nhà Thiếu Tá Tôn Thất Lăng(Nha Trang). Khi Jack về nước Hà có bồ khác và dọn về Đà Nẳng.




  Tôi mừng vì đi đến nơi về đến chốn. Chiều hôm ấy tôi đón xích lô đến sở làm của Sandy, lối China Beach là PX (Post Exchange) lớn nhất Đà Nẳng. Cảnh sinh hoạt  trên phố khiến ta như đi ngược lại thế kỷ trước , đó là người kéo xe, còn xe ôm thì gọi là (xe thồ).


  Gió Đông buốt lạnh sông Hàn
Chiều về ghé lại Hoà Vang thương thầm
Trông về Bát Nhị,Hương Lam
Anh hùng hai mộ Đỗ, Trần vinh danh

  Chiều Đà thành cuối Đông, chiếc xe thồ chạy qua sông Hàn ngọn gió bấc rét căm căm, trong khi tôi mặc áo lạnh thật dầy mà cái lạnh như cắt bầm da thịt, còn bác xe thồ co ro trong manh áo mỏng manh, môi tím ngắt vì lạnh, khiến tôi chợt thương thầm.
   Ngừng xe bác thở ra bốc khói, giọng đứt khoảng:
   -Mệt... đứt... chộ mệ...!

  



  Sandy làm an ninh cho PX, anh thường đi công tác xa có khi ra Quảng Trị, Phú Bài, Phù  Cát,  Qui Nhơn... những nơi có căn cứ của Mỹ. Trưởng phòng an ninh là ông James A. Wokman và ông Mel Slade một Trung tá hồi hưu thuộc Lực Lượng Đặc Biệt. Ông Mel thì mập dềnh dàng còn chị Đức vợ ông thì ốm nhom như cây tre. Nhà chị có một cơ sở nhỏ sản xuất áo len đan máy, có vài nhân viên phụ việc. Đến thăm chị, chị tặng toi chiếc áo len trắng. Trong văn phòng an ninh tôi chỉ biết vài người như Bob Ness và vài cô thư ký người Việt, một cô tên là Phạm Phương Khanh.




  Sau ngày đưa ông Táo, tôi thu xếp về thăm con, anh hỏi bao giờ thì anh mới hân hạnh được gặp má tôi, vì chúng tôi đã chính thức là vợ chồng nên anh rất muốn gặp má và gia đình. Tôi viện cớ là má tôi rất quê mùa, nếu rước má phải đưa về, thì phải tốn hai lần vé máy bay. Anh bảo tốn bao nhiêu cũng được. Tôi không dám hứa chắc với anh, nếu má bằng lòng thì tôi sẽ đưa ra Đà Nẳng.
  Tôi trình bày với má là chúng tôi đã có hôn thú, chỉ vì công việc và tình hình không an ninh nên anh không thể về để ra mắt má cho phải đạo con rể, anh ao ước được gặp má. Má trả lời không suy nghĩ:
  -Tao chưa đi máy bay lần nào! Đi cho biết cũng được! Con út đi hông? Nói chị Sáu bây dìa coi nhà dùm!
  Thế là tôi phải lên Saigòn mua thêm hai vé khứ hồi đi vào mùng 4 Tết. Chuyến đi có phần ăn trưa phần ăn có phần thịt bò bít tếch, má tấm tắc khen:
  -Máy bay êm quá chừng hỗng bị nhồi như đi xe! Lại còn cho ăn sang nữa! Họ có tính tiền thêm hông đây?
  Tôi không nín được cười:
  -Má dùng đi! Họ không có tính tiền thêm đâu mà má lo!
 Nhìn má quê mùa mà tôi thấy thương vô hạn. Có những người xấu hổ vì cha mẹ mình nhà quê, với tôi quê không là cái tội, chỉ tội là cha mẹ làm việc không lương thiện. Có những bà mẹ buôn gánh bán bưng nuôi cho con ăn học thành tài, thế má khi làm được ông này bà kia, họ cảm thấy xấu hổ khi cha mẹ mình quê mùa, nghèo khó. Họ che dấu lai lịch, sợ mọi người biết mình từ giai cấp thấp nhất trong xã hội, những đứa con như thế dù có thành danh, chỉ làm nhơ thêm cái xã hội quá phức tạp này.
  Nhà mới dọn nên còn bề bộn, đêm đến phải lấy thêm mền vì trời lạnh. Hôm sau Sandy từ Huế về, khệ nệ ôm chồng nón lá bài thơ với kẹo mè sửng. Thấy má với út  nét vui mừng thoáng trên mắt anh. Tôi phải làm thông dịch vì anh rất biết ít tiếng Việt, không thôi má với út phải nói chuyện mõi tay. Thế là giải toả hết những thắc mắc nghi ngờ, má tôi không là người mà Hội giới thiệu trong Chợ Lớn, bởi mà và em gái tôi trông quê mùa như tôi đã nói.

Út- thân mẫu (Đà Nẳng 1972)


  Má chỉ chơi một tuần rồi tôi phải đưa về, anh mua tặng đủ thứ quà, má thích nhất là chồng nón lá Huế. Về đến nhà chị Sáu cho biết ngày mùng 4 chị Bạch với Xuyên con của dì Năm lên thăm, biết tôi rước má đi Đà Nẳng chơi thế nào dì năm cũng phân bì.
  Từ ngày anh Sáu Hoa qua đời, chị sanh đứa con trai đặt  tên là Phương. Hai đứa trai lớn Sáng và Điệp thường về phụ công việc ruộng nương vườn tược. Tôi thương chị và xót xa thương chị goá bụa vất vã, nhìn chị ngồi sàng gạo vừa đưa con, nó đã mồ côi từ trong bụng mẹ. Còn cháu Phượng thì hay khóc khi gặp tôi vì tủi thân nhớ đến cha.
Nàng hương gạo mới đầu mùa
Thơm lừng phấn cám mới vừa giả xong
Nàng hương chị nấu giỗ chồng
Chị sàng thêm những long đong phận mình

  Đời chị thật long đong cao số, chị lại bước thêm bước nửa, mà tôi và má chị không bằng lòng vì chị làm bé cho người hàng xóm. Khi có thêm một đứa con thì lại bỏ nhau. Rồi chị lại bước thêm bước nửa rồi khi có thêm 3 đứa con với người chồng thứ ba thì chồng chị qua đời. Chị lại goá bụa lần nữa mà có tới 3 dòng con, nhờ má tôi giúp đở và nhờ chị giỏi dắn mới nuôi nổi đàn con 9 đứa thật là quá vất vã.
  Sau khi đưa má và út về tôi trở lại Đà Nẳng, Chị Đức vợ ông Mel thấy Sandy thường hay đi công tác xa mới đem đến cho tôi một đứa bé gái tuổi khoảng 15 để phụ việc nhà. Nó dân Đà Nẳng trong quê nên tiếng nói địa phương rất nặng, nên tôi nói tiếng miền Nam nó không hiểu, thành ra tôi phải nói tiếng Quảng với nó. Có lẽ trước đó nó chỉ biết coi em nên tôi  phải dạy nó giặt ủi, nó quá khờ dạy đâu thì quên đó, phần đi chợ nấu  ăn tôi phải lo.
  Một bữa nọ tôi làm món  cua rang muối, chỉ nó cách đâm cua dưới yếm, dặn nó để một lát cua chết rồi tôi sẽ chỉ cách làm. Vừa lên lầu đang nói chuyện với Hà thì tôi nghe nó thét lên, tôi chạy xuống thì thấy nó ôm bàn tay mà máu chảy ròng ròng, cái đầu ngón tay gần sứt mà còn ráng nói:
   -Không răng mô!
 Mặt thì nhăn nhó rồi nói tiếp:
 -Nếu con biết như rứa thì...
 Nó bỏ lửng câu nói, tôi tiếp theo:
  -Thì mi mần răng? Rứa mi tưởng ngón tay mi bằng thép hỉ?
 Nó nhìn mấy con cua nằm im tưởng rằng cua đã chết, đáng lẽ lấy đủa khèo thử  mà không lấy lại lấy tay khèo thử, không ngờ cua chưa chết nên kẹp ngón tay nó gần sứt, cả mấy tuần vẫn chưa nhẹ, sau đó phải cho nghĩ việc vì dạy  hoài không được.


 (Xin đón đọc Định Mệnh
Đại lộ kinh  hoàng 1972) 


Thứ Tư, 13 tháng 1, 2016

Định Mệnh- Giã từ Nha Trang

  Bút ký:           Định Mệnh  7


 Giã từ Nha Trang


  Tác giả:    Thanh Hiền-Dị Nhơn


 Bell Thành phố sương mù 2016

  Xuất bản năm 2004








Giã từ Nha Trang

Nha thành nắng úa bâng khuâng
Xa đường Độc Lập xa dần La San
Giã từ phố cũ Nha Trang
Giã từ bạn hữu Nha Trang giã từ....



  Ầm... ầm... ầm, tiếng còi hụ rú lên báo động, những người lính Mỹ túa nhau tìm chỗ nấp. Tôi nhìn họ mà thương hại, vì tổ quốc vì bổn phận thanh niên trong thời chiến, họ đã bỏ gia đình bên kia trời Tây của xứ văn minh yên lành, để đến một nơi mà họ chưa từng nghe qua, một xứ có cái tên là Việt Nam, một nước nhiệt đới đầy khí độc rừng thiêng, đầy những thuốc khai hoang nguy hiểm, mà đạn bom nổ dài không ngừng nghĩ.
  Từng bộ quân trang tôi xếp vào ba lô cho Sandy vì lệnh di chuyển, pháo  kích vừa yên chưa bao lâu thì tin tức khí tượng thông báo, bão và sóng thần đang đe doạ vào Nha Trang, nếu bão không chuyển hướng  thì Nha Trang sẽ bị san bằng, nên tất cả quân nhân Mỹ sẵn sàng lên phi cơ để tránh bão. Mọi người hồi họp theo dõi tin tức khí tượng. Thật không ngờ Nha Trang lại may mắn, nên bão và sóng thần đã chuyển hướng trả bình an lại cho Nha Trang. Mọi người reo mừng thoát nạn, Thuỷ Tinh đã thua Sơn Tinh lần nữa.
  Từ hôm cư xá bị xét gắt gao, cả người làm của  Thiếu Tá Nguyễn Hữu Hạnh cũng bị hốt, mà an ninh lại bỏ xót phòng tôi với  chị Lang. Vì thế vài hôm sau anh Lịch  đèo tôi bằng honda đi làm thẻ. Phụ tá an ninh phi trường căn cứ Sư Đoàn 2 Không Quân là Đại Uý Nguyễn Đức Tôn. Tôi đã có thẻ vào cổng nên không xuống nhờ bà Dung nữa.



  Hết hạ, lần lượt những người lính dạy sinh ngữ lần lượt trở về Mỹ, tôi không còn đem bán dùm thuốc lá với rượu cho bà Trung Uý Hà Thúc Dung nữa, bà thấy anh Lịch hay đến chở tôi nên mới đâm nghi nên mới đi thưa tôi trên phòng an ninh. Đại Uý Tôn cho anh Lịch biết việc đó, và khi biết được tôi không có buôn bán chợ đen, nên tôi không bị bắt lên phòng an ninh. Từ đó tôi không sang bà Dung nữa. Tôi hay sang thăm bà nhạc mẫu của  Trung Tá Nguyễn Thế Thân, chỉ một lần sang nhà ông bà Lê Trọng Hiệp, tôi không nhớ lúc ấy ông là Trung Tá hay Đại Tá? Còn Trung Tá Lê Bá Toàn và anh Lê Bá Thắng cũng ở trong cư xá Phạm Phú Quốc nhưng tôi không biết ở biệt thự nào?

Chiều buồn bảng lảng rơi êm
Sương lam vây kín công viên nhớ người
Qua đây ghế đá chơi vơi
Người phu quét lá sầu rơi mấy bờ 


  Thời gian tôi ở Nha Trang câu chuyện y sĩ Trung Uý Hà Thúc Nhơn. Câu chuyện xảy ra trong lúc "Phong trào chống tham nhũng" lan tràn khắp nước, nhất là thủ Báo chí Sài gòn , dư luận toàn quốc, ủng hộ Hà Thúc Nhơn. Ông là bác sĩ chuyên khoa tai, mũi, họng, có 2  người em trai và gái, em trai là giáo sư Trung học đệ nhất cấp, động viên vào trường Sĩ Quan Thủ Đức. Ông  học trường Petrus Ký.
  Hà Thúc Nhơn   thu thập một số bằng chứng và tố cáo ngay chính các cấp chỉ huy trực tiếp và một số đồng nghiệp tại chỗ của mình.  Ban chỉ huy viện tìm cách cô lập Nhơn thì ông mở kho lấy súng phát cho thương bệnh binh để họ bảo vệ ông  và chống lại ban chỉ huy.

  Ông cùng thương bệnh binh đã làm chủ toàn khu Quân Y Viện Nguyễn Huệ suốt cả tuần. Cuối cùng nhà chức  trách quân sự đã mở cuộc hành quân để tấn công, có xe tăng , chiến binh, và cả phi cơ. Thiếp giáp ủi  sập cổng, một trong các quả bích kích pháo M-79 bắn vào đã nổ tung bên trong căn phòng trong đó có Hà  Thúc Nhơn đang cố thủ trên lầu. Ông bị 1 vết đạn ở đầu , 1 ở cánh tay.
  Ảnh đám tang của Hà Thúc Nhơn được đăng trên khắp mặt báo, đặc   biệt là lúc rước đi trên quốc lộ 1, đoạn từ Xóm Bóng hướng ra nghĩa trang Phật Giáo. Một đám tang vĩ đại chưa từng thấy ở Nha Trang, người đi bộ, đi xe đạp, đi xe máy, xe hơi... chen chúc nối đuôi nhau  thật dài. Giữa bao dòng lệ tiếc thương tiển đưa bác sĩ  Hà Thúc Nhơn đến nơi an nghĩ nghìn thu. Cũng bởi người dân căm thù tham nhũng và tiếc thương Hà  Thúc Nhơn nên họ ùn ùn đi tiễn ông. Nghe mọi người khen ông  ngoài tánh hào hoa, là lòng can đảm, liều lĩnh, nhưng nóng tánh, ương ngạnh và bất khuất. Là một bác sĩ giỏi, trong sạch, nhưng đã uổng  mạng vì "căn bệnh  tham nhũng". việc làm của Hà Thúc  Nhơn đã lay động mọi lương tâm của mọi tầng lớp.(trích đăng của Lê Xuân Nhuận).
   Lệnh cấm  trại ban hành và bài hát  Cấm Trại 100% do ca sĩ Hùng Cường được nhại đi nhại lại với sự phụ hoạ của Sandy.

Công viên hoa nắng bơ vơ
Nhớ người năm ấy bây giờ về đâu?
Núi xanh biển cũng một mầu
Thuỳ dương vắng ngắt biển sầu vì ai!

  Người có công diệt ông  Hà Thúc Nhơn là tỉnh trưởng Khánh Hoà, Đại Tá Lý Bá Phẩm, chẳng được dân chúng tuyên dương. Sau khi Trung Uý Hà Thúc Nhơn chết dân chúng Nha Trang xin làm một công viên để tưởng nhớ, đặt tên là công viên Hà Thúc Nhơn.

Công viên tưởng niệm người trai
Vì đời đã chết từ ngày còn xanh
Ai về có ghé Nha Thành
Thăm công viên cũ đặt cành hoa thương
Máu xương anh đã lót đường
Sáng trong như một tấm gương để đời !


  Davis cùng nhóm lính dạy học sinh ngữ đã hết hạn, họ chuẩn bị về nước. Chị Lang cũng thu xếp về Sàigòn, chị đang mang bầu lần thứ nhì. Từ ngày vắng chị Lang tôi không làm bạn với ai cả, các cô có chồng Mỹ trong cư xá xầm xì cho  rằng tôi hách. Tính về tiền bạc hay sắc đẹp thì tôi thua họ xa lắc, bởi tôi sống giản dị đã quen, chứ không phải tôi cố làm ra vẻ con  nhà lành, bởi tôi hay để mặt trần nên ai cũng lầm tôi là bồi phòng. Thây kệ! Ai nghĩ sao cũng được, tôi cho đó là "cái bệnh" chung mà mọi người thường mắc phải khi đánh  giá qua cách phục sức bên ngoài. Những cô có chồng Mỹ họ sống buông thả, ăn nói thô tục, họ không thiếu thốn tiền bạc mà thiếu thốn tình yêu, nên tìm chốn ăn chơi náo nhiệt để khoả lấp những khát khao thèo muốn, phần nhiều đều có bồ Việt.


nhà Thiếu Tá Nguyễn Hữu Hạnh
cư xá Phạm Phú Quốc

   Những biệt thự giờ bỏ trống, dần dần được những người Mỹ dân sự, quân sự có gia đình vào thuê. Biệt thự phía  trước của Thiếu Tá Lăng được Lý, một cô gái trẻ có chồng lính Mỹ dọn đến. Lúc chuyển bụng sanh mà chồng lại đi vắng, lại vào ban đêm nên xe MP chở đi dùm. Người nào cũng sợ đưa sản phụ đi sanh bị xui nên ai cũng từ chối, thế là tôi lại phải đưa đưa dùm, thông cảm cảnh qua biển mồ côi nên tôi lại vào phòng sanh. Lý cho ra đời một bé gái kháu khỉnh. Tôi thấy vui vì làm một việc lợi ích giúp người.   


Nha Trang 1970

  Chỉ vài tháng sau Lý lại theo chồng thuyên chuyển nơi khác. Hà lại dọn đến với người bồ tên Jack làm cho hãng RMK. Qua Hà tôi quen anh Nguyễn Văn Nhơn, lúc ấy anh là Trung Uý làm tuỳ viên cho Tướng Linh Quang Viên. Anh hay  lái chiếc xe loại Harley Davision 1.200 phân khối, bên  hong còn đèo thêm một cái xe một chỗ ngồi. Anh rất đô con và hơi lớn tuổi mà còn độc thân, vì thế Hà với các bạn hay xầm xì cho rằng anh không bình thường.
  Thiếu Tá Nguyễn Hữu Hạnh thuyên chuyển nơi khác, tôi thuê  lại nhà ông, đám đất phía bên bỏ trống nên tôi lên giồng trồng đậu phọng. Mang quần áo ra phơi tôi bùi ngùi nhớ đến chị Tư. Từ ngày nhóm lính Mỹ về nước, chị Từ cùng số bồi phòng thất nghiệp, những người thuê nhà sau này đều có người là riêng. Những cặp nhân tình Mỹ-Việt  mướn nhà vài tháng lại dọn đi, rồi những cặp khác đến.Tôi hạn chế sự giao thiệp, thời giờ rảnh tôi học anh văn, đọc sách để có thêm kiến thức và may quần áo.






  Con đường Sàigòn-Nha Trang do hãng thầu RMK đã hoàn tất, sẵn dịp Joe và một người Mỹ nữa lái xe jeep về  Sàigòn nên tôi đi theo. Joe đưa tôi về tận Bà Rịa, bỏ tôi ngoài lộ rồi vội vã trở lại Sàigòn. Joe là dân sự đến từ Texas làm việc cho trường sinh ngữ do chánh phủ Mỹ tài trợ. Joe mua chiếc xe jeep dân sự nên bán chiếc xe jeep quân sự lại cho Sandy. Bảng xe mang số V.A.A.E.L.S .2024, vốn là số điện thoại của trường sinh ngữ.

  Tính đến tháng 1-1971, quân đội của Mỹ tại Việt Nam chỉ còn 140.000 binh sĩ. Tại Quân Khu 1 các đơn vị chiến đấu thuộc Lực Lượng Thuỷ Quân Lục Chiến (III MAF) đã rút lui hoàn toàn ngoại trừ Lữ Đoàn 196 Bộ Binh đang phụ trách bảo vệ Đà Nẳng và căn cứ Phú Bài. Và năm 1971 cũng là năm bầu cử độc diễn của Nguyễn Văn Thiệu.
   Tướng Greighton Abrams Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ thay thế Tướng Wesmoreland . Tướng Sutherland Tư Lệnh Quân Đoàn XXIV Hoa Kỳ, bản doanh đặt tại Quảng Trị trú đóng vùng giới tuyến. Tướng Berry Tư Lệnh phó hành quân Sư Đoàn 101 Không Vận. Tướng Alexxander Haig là phụ tá. Cuộc hành quân (Dewey Canyon II) của Mỹ được khai diễn vào lúc 4 giờ sáng ngày 29-1-1971.




Tướng Hoàng Xuân Lãm


  Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân  Đoàn 1, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định chức Tư Lệnh chiến trường. Vào sáng ngày 8-2-1971, trên các làn sóng điện của đài phát thanh Sàigòn và Quân Đội, Tổng Thống Thiệu loan báo cuộc tiến quân qua Lào mang tên "cuộc hành quân Lam Sơn 719". Đơn vị tham chiến gồm Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Sư Đoàn Nhảy Dù, Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, các lực lượng Không Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh... được sự yểm trợ của Không Quân Mỹ với các pháo đài bay B-52 từ Guam qua, Sư Đoàn 101 Không Vận, hải Quân, Thuỷ Quân Lục Chiến và Lục Quân Hoa Kỳ. 






  Sau 3 năm, cuộc chuyển quân rầm rộ của Mỹ từ Đà Nẳng, Huế, Đông Hà. Họ trở về từ vùng đất tử thần Khe Sanh, Làng Veo, lao Bảo, sát với biên giới Lào-Việt nằm trên quốc lộ số 9. Căn cứ Hoả Lực 31 do Tiểu Đoàn 3 Dù trấn thủ, nơi người pháo thủ Nguyễn Văn Đương, nguyên là Đại Uý Pháo Đội Trưởng Pháo Đội C của Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Nhảy Dù, đã anh dũng cùng đồng đội chiến đấu đến viên đạn cùng cùng rồi tự sát.





Đại Uý Nguyễn Văn Đương

  Dư vang trận đánh Hạ Lào trên đồi tử thần 31 với bài hát người pháo thủ tên Đương "Anh Không Chết Đâu Anh" đã  đi vào lòng người bằng sự kính phục, gây xúc động trong mọi giới. Vết thương Hạ Lào còn mãi vết đau trong lòng mọi người và hình ảnh người pháo thủ ấy vẫn sống mãi trong lòng người Việt, bằng những ngậm ngùi thương tiếc. Và bài hát "Kỷ Vật Cho Em" của nhạc sĩ Phạm Duy cũng sáng tác trong thời gian này. 

Vết thương cuộc chiến Hạ Lào
Rừng thiêng bỏ xác máu đào cứ tuôn
Từng  mảnh thịt.. từng khúc xương
Nằm lăn lốc giữa sa trường khói bay...
Từng mảnh sọ... từng bàn tay
Ba lô nón sắt nhuộm đầy máu tanh
Dư vang bài hát tên anh
Người hùng mũ đỏ pháo binh Nhảy Dù !

  Đơn vị cuối cùng của VNCH rút khỏi biên giới Lào-Việt vào ngày 31-3-1971. Hầu hết các chiến sĩ hy sinh tại Lào xác bị bỏ lai trận địa. Trận đánh lớn nhất, thảm khốc nhất trong chiến tranh Việt Nam, 45 ngày cuộc chiến Hạ Lào đã làm hàng chục ngàn thương vong. Từng cánh Dù không kịp mở, những viên đạn cuối cùng!

Xác nằm tức tửi bơ vơ
Huy chương chẳng có nấm mồ cũng không
Khao quân chiến thắng thưởng công
Vô danh chiến sĩ chết trong ngậm ngùi...


   Ngày 17-4-1971, một lần nữa Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lại trở ra cố đô Huế, chủ toạ lễ khao quân mừng chiến thắng của cuộc hành quân Lam Sơn 719, buổi lễ được tổ chức tại Phú Vân Lâu với sự tham sự của Thủ Tướng Chính phủ và toàn thể nội các, đại diện Lưỡng Viện Quốc Hội và Ngoại Giao đoàn. Những ngôi sao được gắn lên 2 cổ áo của tân Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh và Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhảy Dù. 


Tướng Vũ Văn Giai và Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu


  Thập niên 70 thời kỳ cực thịnh của nhạc trẻ như: Jo Marcel, Tùng Giang, Trường Kỳ... thêm các nhạc sĩ tên tuổi như Phạm Duy, Khánh Ly đứng ra tổ chức Đại Hội nhạc trẻ để quỷ lạo gia đình tử sĩ cô nhi quả phụ trong trận Hạ Lào. Ngày 25-5-1971 tại sân vận động Hoa Lư (Sàigon), khán đài ngoài trời do Tiểu Đoàn Công Binh Chiến Đấu thực hiện. Đại nhạc hội thế giới gồm 40 ban nhạc trẻ Việt, Mỹ, Úc, Phi, Đại Hàn trình diễn, gần 20  ngàn thanh thiếu niên tham dự đại nhạc hội trẻ thế giới.
  Trước mấy tuần Sandy vào Sàigon làm giấy giải ngủ, Thiếu Tá Tôn Thất Lăng xin dùm trực thăng để Sandy ra Cam Ranh khám sức khẻ tổng quát. Lúc xuống trực thăng thì Sandy mới biết là máy liên lạc bị hư, thế mà chàng phi công bỏ Sandy xuống rồi tiếp tục cất cánh tỉnh bơ, anh lắc đầu chào thua vì họ gan lì và liều lĩnh quá. 
  Lúc Sandy vào Sàigòn làm giấy giải ngủ là lúc trận chiến Hạ Lào đang hồi khốc liệt nhất. Đêm về khuya... vài chiếc lá khô xào xạc hiên ngoài, gió thổi mạnh làm mấy nhánh cây dương liễu gẫy răng rắc, vật vã quằn quại suốt đêm. Không muốn nghĩ về Nhơn, nhưng tin tức chiến trận Hạ Lào cứ ra rả bên tai và biết có sự tham dự của Tiểu Đoàn 3 Dù khiến tôi lo lắng cho anh.




Em về vá lại áo chàng
Đắng cay... cay đắng sầu đan kín đời
Đường kim mối chỉ rối bời
Mơ ngồi vá áo cho người yêu xưa !

  Tưởng chừng như mới hôm nào tôi ngồi may áo cho anh, lúc anh còn miệt mài giữa lằn tên mũi đạn, giữa chiến trường máu đổ thịt rơi, đi băng bó vết thương cho đồng đội. Tôi mong, tôi đợi đếm từng đêm xa cách, mong ngày anh trở về cùng sống bên nhau, cùng chia nỗi vui, nỗi buồn. 

Em về vá lại chữ yêu 
Bao nhiêu mũi chỉ bấy nhiêu đoạn trường
Em về vá lại chữ thương
Lối về đơn lẽ bởi đường thiếu anh
Em về vá lại ngày xanh
Thời gian liều thuốc chưa lành vết đau !

  Cái ước mơ bé nhỏ đó, cái hạnh phúc nhỏ nhoi đó chỉ sống được 7 ngày ngắn ngủi, rối chết tức tưởi trong tiếc nuối ngậm ngùi. Giờ tôi lạc loài nơi xứ biển thì còn mong chi chung bước chung đường. Giáp vòng chân trời, biển mù mù đã che khuất bóng hình anh mất rồi. Anh giờ đang ở đâu? Anh có mong bước chân thất lạc của một người về? Hay là anh hờn trách con người bội bạc này? Anh có còn sống sót sau cuộc chiến Hạ Lào?  Hay đã nằm xuống... tôi không dám nghĩ tiếp nữa!




Vắng chồng em lại tự tình
Với trăng, với gió với hình bóng xưa

  Đêm Nha Thành đơn lẻ, đêm cư xá buồn tênh, một mình trong căn nhà vắng lạnh, tôi có thể nghe tiếng chân mình di động khô khan trên nền gạch, những đêm mất ngủ, bóng tôi ngồi may soi dài trên bờ tường trắng trông cô quạnh lẻ loi.
  Ngày 31-3-1971 là ngày đơn vị cuối cùng của VNCH rút khỏi biên giới Lào-Việt, cũng là ngày Sandy giải ngủ. Anh là người lính Mỹ giải ngủ đầu tiên tại Việt Nam mà không phải trở về Mỹ. Năm hôm sau Sandy từ Sàigon về, nhìn anh khác lạ trong bộ đồ dân sự. Chân anh vui bước mà trên tay ôm mấy quả bưởi Biên Hoà. Nói làm sao cho hết nỗi vui vì mình không phải theo anh về nước. Hai đứa chọn miền thiên đường Nha Trang làm quê hương thứ hai.
  Hè năm 1971 (Tân Hợi) 
 Lần này về rước con tôi ghé qua Sàigòn thăm chị Lang. Chị thuê một phòng trong tầng lầu của cô Sáu ở đường Thành Thái gần chợ Bàu Sen. Chị Lang có thêm đứa con gái lai nữa tên Linh, Davis vẫn gửi tiền cấp dưỡng đều đặn, hiện tại chị đang sống với một người bồ Mỹ khác.
  Con gái tôi đã có 2 khai sanh, tên Đặng Thị Huệ, cha là Đặng Văn Hội mẹ là Trần Thị Hạnh,  hôn thú làm tại Sàigòn. Khai sanh thứ hai là Đặng Thị Kim Loan tên hắn và tôi không có hôn thú làm tại xã Long Hương (Bà Rịa) . Tôi nhờ chị Lang làm một khai sanh thứ ba, cha vô danh mẹ là tôi, làm tại Long Mỹ xã Trường Long (Phong Dinh). Ra toà hoà giải ngày 25-6-1971. Quận trưởng kiêm Thẩm Phán là Thiếu Tá Trần Hữu Nghi. Tên khai sanh mới là Nguyễn Thị Diễm Chi, ngày sanh là 25-8-1963, khai sụt 1 tuổi.
  Lý do là tôi muốn dứt khoát hẳn với người cha vô trách nhiệm và thiếu bổn phận kia, và nếu có chuyện gì xảy ra tôi có thể đem con theo mà không có trở ngại gì. Cả hai tờ khai snh do hắn khai đều chết yểu sau 9 năm.
  Khi tôi về đến nhà thì anh Sáu Hoa đau nặng đang nằm bệnh viện Đại Hàn ngoài Vũng Tàu, lúc ấy chị đang mang bầu đứa con thứ tư. Tôi đến bệnh viện thăm anh mà anh mê man không biết gì cả. Đêm đó tôi nằm mơ thấy mình rụng răng mà có máu, tôi lo sợ anh không qua hỏi nên nói má cầu an cho anh. Lỡ chọn chuyến bay rồi tôi phải về lại Nha Trang, trước khi đi tôi để lại địa chỉ nhà chị Lang.
  Tôi lên chị Lang trước một ngày, hai đứa kéo nhau đi phố. Hơn một năm qua tôi mới có dịp bước chân lên thành phố Sàigòn. Dù không sợ sệt cúi mặt như xưa mà bước chân như ngỡ ngàng. Với tôi Sàigòn là thành  phố sa đoạ, cái ấn tượng đó mãi mãi không phai, nơi mà người trai hào hoa Sàigòn đã manh tâm đem tôi ra bán rẻ. Tôi rùng mình cảm thấy không thân thiệt nỗi với cái thành phố này. Đi phố về thì đã thấy em gái đang đợi thì tôi đã đoán ra ngay. Tôi nhờ chị Lang dời dùm chuyến bay và đánh dùm điện tín ra Nha Trang.
  Anh Sáu Hoa qua đời ngày 6-5-1971 âm lịch (Tân Hợi). Định Mệnh đã dành cho anh không phải thây phơi chiến trường. Anh sanh năm 1938 (Mậu Dần), chị tuổi Tân Tỵ, đứa con gái thứ tư tuổi Mậu Thân, chị mang bầu đứa tuổi Tân Hợi thì anh chết. Lời thầy coi tuổi 12 năm trước đã ứng nghiệm.


Đời anh lính chiến miệt mài
Ba lô áo trận sống ngoài biên cương
Anh không chết ở sa trường
Nhưng anh chết ở bên giường thê nhi


gia đình anh Sáu Hoa

  Đã 6 lần tôi đưa người thân qua cầu sông Dinh, tôi đặt tên là cây cầu "sinh tử". Như cây cầu Hiền Lương chỉ ngăn cách thâm tình một ngày kia cầu sẽ nối lại, còn cây cầu sống Dinh cắt chia giữa sự sống và cái chết.
  Sáu lần tang trắng qua đây
Chiếc cầu sinh tử bỗng gầy lối xưa
Chị về chẳng có anh đưa
Đàn con nheo nhóc đứa chưa chào đời
Cầu đưa qua đó sầu rơi
Chị về xóm cũ lẻ loi trong chiều
Bên cầu liễu rũ buồn thiu
Thương đời goá phụ quá nhiều tang thương !


anh Sáu Hoa và 2 con  Điệp và Phượng

  Tiếng khóc sụt sùi hoà với tiếng kèn đám tang buồn áo não. Nắng hè chói chang trên những chiếc áo tang bé nhỏ, chị dâu tôi bước nặng nề vì cái bào thai đang mang khá lớn, hay... gánh nặng đang đè lên vai của chị???...
Mẹ gà con vịt chắt chiu
Chị thôi sàng gạo buôn thiu qua cầu
Sớm chiều lặn lội đồng sâu
Hai vai bỗng nặng gánh sầu mênh mông

  Trong nghĩa trang gia đình lại mọc thêm một nấm mộ mới, áo tang trắng quá làm nổi bật trong chiều nắng quái. Hàng tre tầm vong bên miễu buồn thiu theo tiếng khóc tỉ tê.
  Chiếc cầu sông Dinh hôm sớm vẫn đưa chị về xóm cũ, chị bước lẻ loi với đàn con, trong bụng còn mang đứa con chưa chào đời đã để tang cha. Chiều xuống, trời u ám làm mặt nước sông Dinh xám xịt mà hàng liễu bên chân cầu cũng rũ xuống buồn hiu hắt như đời goá phụ.
Khói lam buồn ngẩn ngơ lòng
Bụi bay mù cả cánh đồng rạ khô
Con đường làng trắng khăn sô
Chị làm goá phụ quạt mồ người thương!

 Tôi không có ý mỉa mai chị khi viết câu quạt mồ người thương, bởi mãn  tang chồng chị lại tái giá với người hàng xóm cạnh nhà mà lại làm bé cho người, đến má chị cũng giận vì chị quá  vội vàng, khi có một đứa con gái với người hàng xóm thì lại bỏ nhau. Chị lại bước đi bước nữa, thêm mấy đứa con nữa thì người chồng thứ ba cũng qua đời, chị lại làm goá phụ lần nữa.


Nguyễn Văn Lang


Qua cầu vạt nắng rưng rưng
Mười năm tình cũ ngập ngừng gió bay
Bên đường người đó ta đây
Mà chừng ngăn cách từ ngày ban sơ

  Hơn một năm qua... tôi bùi ngùi nhìn lại giòng sông Dinh, bến cũ lưa thưa thuyền rời bến, nước vẫn lặng lẻ trôi, hàng dương liễu vẫn ngày đêm thì thầm than thở như gợi nhớ ngày anh Tám Búp về trắng toát trên chiếc băng ca.

Ta về đây như cánh diều bạt gió
Nắng đìu hiu vàng vọt khóm tre già
Nhớ người anh của ngày xa xưa đó
Ngày trở về trắng quá chiếc băng ca

  Bước xuống dốc cầu, quán Công Luận vẫn còn đó, nhà bà giáo Hồ vẫn còn đây. Cạnh đó ngôi trường tiểu học Long Hương của con, mấy cây phượng đỏ thắm sân trường báo hiệu hè sắp tới. Bỗng tiếng gọi cắt đứt dòng tư tưởng, tôi thoáng chút ngỡ ngàng khi gặp lại người xưa. Một chút bẻ bàng, một chút buồn tủi chợt dâng. Tôi muốn tránh nhưng không còn kịp nữa, Lang dừng xe vồn vã hỏi thăm.
Ngỡ ngàng gặp lại người xưa
Ngập ngừng anh bảo: - Xin đưa em về
Hai ta giờ đã yên bề
Có duyên chẳng nợ chưa thề thuỷ chung !

  Tôi từ chối khi anh có ý đưa về, chẳng phải tôi làm cao mà nghĩ rằng mình không còn là cô thôn nữ hôm nào, thân đã lấm bùn vì dạn dày sương gió, về quê vẫn mặc chiếc áo bà ba hai túi, có lẽ để hối tiếc kéo níu lại một thời thôn nữ.

Tôi cô thôn nữ năm nào
Dạn dày sương gió bước vào gió sương
Sao rơi xoay tít sao buồn
Chiều đi bóng ngã bên đường buồn thiu !

  Dù mối tình đầu kéo dài chỉ mấy mùa trăng, dù nó ngắn ngủi mà tình cảm chưa sâu đậm, nhưng trong lòng tôi vẫn luôn kính mến anh, vì anh đã giữ được mối tình được trong trắng, và anh đã  lặng lẽ ra đi làm kẻ thua cuộc. Nhìn vào đôi mắt anh vẫn buồn như ngày nào, đôi mắt người xưa đã một lần làm tim tôi xao xuyến. Tôi vội vàng quay bước như trốn chạy, bởi anh nào biết đời tôi lắm hờn tủi bẻ bàng, giờ nơi xứ người vẫn mãi long đong. Anh ở đây với hạnh phúc ấm êm mà trong ký ức hình bóng tôi đã mờ theo dĩ vãng. Anh dừng xe bên đường, bóng ngã dài buồn thiu trông theo.

Mười năm gặp lại người tình
Trông qua bến cũ sông Dinh vẫn buồn
Chia tay hai đứa hai đường
Trường giang lỡ chuyến đò thương thôi chờ !

  Câu chuyện mười năm tưởng đã quên, tình cờ gặp lại cố nhân bỗng khơi đọng lại dĩ vãng đau thương. Hình như trong một góc trái tim, tôi còn giữ lại chút kỷ niệm của mối tình đầu.
   Ngang nhà anh Bé Châu lòng bỗng dưng bùi ngùi, như tất cả thanh niên trong thời chiến, anh học hành dang dở, xếp bút nghiên chọn mầu áo biển của Anh Thy. Giờ anh đã lập gia đình, nghe dì  Ba mẹ của anh khen vợ anh là dâu thảo vợ hiền. Tôi mừng cho anh luôn được hạnh phúc. Hình ảnh người thư sinh ấy chỉ còn vài nét chấm phá trong tôi.
Rợp trời nghìn trái sao rơi
Hương sao ngan ngát nhớ thời ấu thơ
Đường làng sao rụng bơ vơ
Người thư sinh ấy bây giờ ra sao?

  Ngang cây sao dựa cái cống trước nhà chị Ba Sâm, qua vài cơn mưa đầu mùa, lá non xanh mơn mởn ra hoa gió núi thổi ào làm những trái sao rơi xoay tròn cuốn theo dăm chiếc lá non cũng vội vàng rơi theo. Như các anh, chị, em của tôi cũng hối hả nằm xuống giữa lứa tuổi thanh xuân. Nhặt trái sao rơi mà chạnh nhớ một thời ấu thơ có anh, có chị, có em. Anh Tám Búp lúc nào cũng chia phần cho tôi nhiều hơn cả, có khi từng hột điều nóng hổi, dòn tan béo ngậy, đến trái mản cầu chín cây ngọt lịm, lúc trái me non chua lẻ, khi thì trái ổi chát ngắt, lúc chén canh nấm tràm đắng như thuốc ký ninh.
  Giờ các anh, chị, em không còn để chia xẻ mà nhường hết lại cho tôi. Chỉ mình tôi nhận lấy tất cả ngọt bùi, chua chát, vị đắng cay của mặt trái cược đời. Chiều cô thôn thật buồn im  lòm mờ nhạt, bóng tôi lẻ loi ngả dài di động. Bên đường nghìn trái sao rơi rợp trời, như tôi cứ xoay mãi theo nhịp đời trăm ngã...
   
Sao rơi để tháng năm gầy
Nhìn sao rơi rụng nhớ ngày có anh
Mồ em, anh cỏ đã xanh
Còn tôi cứ mãi xoay quanh dòng đời...




  Tang ma cho anh Sáu Hoa xong tôi đưa con ra Nha Trang nghĩ hè. Lần này con rất nao nức gặp lại Sơn với Phượng, cả nhà anh Chị Lịch ai cũng cưng chiều nó. Nó bớt ganh tị và vui hơn kỳ hè trước. Còn tôi, từ ngày xẩy thai rồi thôi không bầu lần nào nữa cả, bao nhiêu tình thương tôi dành hết cho con. hai mẹ con đi biển, đi phố, ghé tiệm King Nha Trang chụp ảnh, được tiệm dùng làm mẫu. Tôi thường về thăm con chỉ ở nhà chứ không ra chợ. Út kể, hắn có dẫn bạn ghé nhà thăm nó, hắn khoe:
  -Đây là con của tao!
 Bị nó phản ứng;
  -Tôi đâu phải là con của ông! Khi tôi mới sanh  ông đã không nhận rồi mà! Sao bây giờ lại nhìn?
  Hắn thộn mặt ra nhìn con sượng trân, hỗng ngờ nó nói thẳng làm hắn bể mặt với bạn, miệng hắn như bị ai tọng đá nên   á khẩu chẳng trả lời được. Từ đó hắn thẹn nên ít ghé thăm con nữa. Tôi biết con hờn tủi vì bị bỏ rơi nên mới thốt ra những lời hằn học đó, và nó rất ít khi nhắc hắn trước mặt tôi.



Sandy và các bạn trường Anh Ngữ Nha Trang- 1970

   Đầu tháng 11-1971
 Sau khi giải ngủ Sandy chỉ đi dạy anh văn ban đêm, đã tám tháng qua tù túng nằm nhà, Khi nhận được thư phải vào Sàigòn nhận việc là làm an ninh cho PX (Exchenge) ngoài  Đà Nẳng. Anh vốn thích hoạt động nên rất mừng khi được việc làm. Tin anh phải đi làm xa khiến tôi thẩn thờ đôi giây, vì không muốn rời xa Nha Trang cái thành phố mà tôi mang nhiều thiện cảm, nhìn đám mây trôi lang thang mà lòng giăng mắc buồn!  Đang suy nghĩ vẩn vơ chợt anh đột ngột hỏi:
  -Em có nhớ Hội hồi ở Trương Minh Ký không?
 Có tịch thì nhúc nhích, câu hỏi làm tôi giựt mình, anh tiếp:
  -Anh đi ăn trưa ở câu lạc bộ đường Trần Hưng Đạo gặp Hội ở đấy! Anh ta hỏi anh ở đâu? Anh bảo là ở Cam Ranh! Nhìn con gái em sao mà anh thấy giống Hội thế!
  Tôi thấy chưa đúng lúc nói ra sự thật nên đáng trống lảng nói sang chuyện khác. Sống chung 2 năm, tôi được tự do thật sự nên không đòi hỏi gì nữa cả. Tôi chấp nhận là nàng hầu cho anh cũng chẳng sao, chỉ mong đền đáp cái ân to lớn kia. Tôi vốn không thích dấu tiền riêng, vì thế tiền chợ hàng tháng dành dụm được tôi mua vàng lá làm của, mỗi lần sắm được lượng nào tôi đều đưa cho anh xem chớ không dấu làm của riêng. Chỉ có một điều thắc mắc là tôi chẳng bao giờ có thư liên lạc với gia đình hay bạn bè.




  Trước khi Đà Nẳng anh bảo tôi bán chiếc xe jeep, số tiền bán được anh cho tôi mua chiếc vòng ngọc, còn chiếc xe Kawasaki thì để lại. Chiếc xe này của Henry, người bạn trong trường sinh ngữ gửi tạm tromng khi về nước, vì Henry sợ người bạn gái bán, sau đó Henry đổi ý không trở lại Việt Nam nên tặng lại cho Sandy. Anh lại dặn tôi có về thăm nhà thì lấy giấy khai  sanh và chứng chỉ hạnh kiểm, khi nào anh về lại Nha Trang thì đi làm hôn thú.
  Lúc mới gặp nhau thì anh hứa khi giải ngủ, thế mà đã 8 tháng qua anh ra quân ngủ không thấy anh nhắc nhở nên tôi cũng chẳng hỏi. Nghĩ  là cái số mình không ra gì, chẳng bao giờ có cái diễm phúc được làm vợ cho ai, nên đành an phận mà chỉ buồn tủi riêng mình. Bỗng nhiên anh nhắc lại, tôi chỉ nghe chứ vẫn chưa tin.





  Ngày 8-11-1971, anh đáp máy bay Quân Đội ra Đà Nẳng nhận việc. Mấy tuần sau thì tôi cũng khăn gói về  Bà Rịa  thăm con  sẵn dịp lục lại khai sinh và xin chứng chỉ hạnh kiểm.Trở lại Nha Trang, trở lại căn nhà nhỏ mà sao quá thênh thang. Tôi không chịu nỗi căn nhà quá vắng vẻ quạnh hiu mà cơn bão lòng cứ triền miên kéo tới, tôi sợ giấc ngủ dật dờ bệnh hoạn, sợ những giấc mộng hãi hùng mà biển nhớ cứ dạt dào qua lối về kỷ niệm.


Về đây biển nhớ dạt dào
Núi mờ kỷ niệm gió gào cuông điên
Về đây biển nhớ hờn duyên
Nghe mưa cuồng nộ qua miền sông quên !

  Hai tháng trôi qua chậm chạp, tôi cảm thấy dài như hai thế kỷ. Kỷ niệm càng gắn bó, mà nỗi buồn cứ đeo cứng không rời, biển nhớ vẫn than thở mà đám mây lẻ loi vẫn vô tình lơ là không định hướng. Đêm Nha thành cô lẻ quạnh hiu, đêm cư xá buồn tênh lạnh vắng, vọng hướng quê nhà tôi chạnh nhớ đến con mà lòng se thắt!



Nỗi buồn đeo mãi không rời
Quạnh hiu cư xá lẻ loi đêm buồn
Gió vờn qua mấy hàng dương
Đêm nay cô quạnh đêm trường quạnh hiu !

 Chợt giựt mình khi tiếng đập cửa gấp rút, tôi hé màn nhìn ra xem là ai, cũng bởi không lâu nhiều biệt thự trong cư xá bị trộm, và biệt thự kế bên là chị Thuận bị trộm vét sạch vì sợ ma. Chồng chị là lính Mỹ, còn rất trẻ so với chị, tôi hay gọi đùa là anh chàng "lính sữa". Chị đã có một đứa con gái lai đầu lòng, đang mang bầu đứa thứ hai, đứa cháu tên Vân phụ giúp việc nhà.
  Thấy Vân  nên tôi mở cửa, vân cho biết chị Thuận đang  chuyển bụng mà chồng không có nhà lại nhằm lúc giới nghiêm. Tôi liền ra cổng tính nhờ Quân Cảnh gọi dùm xe, cũng may gặp xe tuần của MP , nên nhờ họ chở dùm đến nhà nhà bảo sanh ngoài phố. Tôi lại phải vào phòng sanh với sản phụ, chị lại sanh một bé gái nữa. Tôi ở lại đến sáng mới về, vừa qua khỏi nhà Nga thì nghe tiếng người gọi giật ngược.
  Nga đon đả hỏi:
  -Làm gì tối qua mà bị MP hốt vậy?
  Tôi hơi bực, nhưng không muốn gây chuyện nên đấu dịu:
  -Chồng chị Thuận vắng nhà nên đưa dùm chị đi sanh!
  Nga cười dả lả: 
  -Thế mà em cứ tưởng.....
  Nga bỏ lửng câu nói, tôi tiếp:
  -Tưởng gì? Bộ muốn trù ẻo người ta sao cha!
  Hai đứa cùng phá ra cười. Ba ngày sau Thuận từ nhà bảo sanh về, có đứa cháu tên Hiếu từ Sàigòn ra thăm. Hiếu đến cảm ơn tôi đã giúp đỡ Thuận lúc sanh nở.Mới gặp nhau mà Hiếu có cảm tình với tôi ngay. Cuối tuần đó Hiếu rũ đi Tháp Bà, sẵn mình chưa đi nên cũng muốn đi cho biết.
   Đả 2 năm qua tôi bỏ trang điểm, bữa nay muốn diện lên một tí. Đứng ngắm mình trong gương thấy cũng còn xuân sắc chán, lòng tự hỏi "mình làm đẹp để ai ngắm đây?". Bộ ái dài đen ôm lấy thân tôi, trông nó buồn hiu hắt như đời goá phụ, mà lớp son phấn không sao che dấu được vẻ u sầu tiềm ẩ bên trong. Hiếu đứng ngây người trố mắt nhìn tôi rồi buột miệng:
  -Chị trang điểm lên trông đẹp quá làm em nhìn không ra! Sao chị không trang điểm thường em thấy thật là uổng! Chị mặc mầu đen trông sao mà buồn thế!


Tháp Bà- Nha Trang

Chiều đi vướng nóc Tháp Bà
Nghe chừng nghèn nghẹn khúc ca Đồ Bàn
Nghe chừng hận nước chưa tan
Gió như tiếng khóc hồn oan ma Hời !

  Tháp Bà thuộc tỉnh Vĩnh Xương xây từ thế kỷ thứ 7, cao 23 thước, kiến trúc đặc biệt theo lối Chàm, thờ Thiên Y Thánh Mẫu
(Poh Nagar). Phía bên ngoài  còn tấm bia lớn ghi sự tích về Tháp Bà. Trên ngọn đồi nhìn xuống là bể Cù Lao. Dưới chân Tháp Bà là cầu xóm Bóng dài khoảng 200 thước, quốc lộ 1 đi qua cây cầu này.
  Hai nước Chiêm Thành, Chân Lạp bị khai tử bởi vua Lê Thánh Tôn. Trong các xã Lương Sơn và Chợ Lầu thuộc tỉnh Bình Thuận còn nhiều bài vị bằng đá của những người trong hoàng tộc Chiêm Thành. Trong số này có miếu của vua Pô Yang Thok  vị vua cuối cùng của Chiêm Thành (1627-1651). 



 cầu xóm Bóng-Nha Trang- 1970

  Sau khi dâng hương, hai đứa chụp vài bô hình kỷ niệm, sẵn dịp kéo qua Hòn Chồng ở thôn Cù Lao cách Nha Trang 4 cây số về hướng Bắc. Có một tảng đá nằm chênh vênh với dấu bàn tay thật lớn. Mặt biển nơi đây ít sóng, những tảng đá chồng lên nhau  hướng ra mặt biển như thách đố với thời gian, nhìn qua dãy núi như người thiếu phụ nằm xoả tóc.



  Chiều nay tiếng sóng còn đang
như cơn biển đọng ghé  ngang trong lòng
Chiều nay ghé lại Hòn Chồng
Hồn ta theo sóng theo dòng nước trôi...

   Bãi biển hơi vắng, mắt tôi lang thang nhìn ra ngoài khơi, xa xa mấy chiếc tầu nhả khói trắng đục chập chạp trôi làm mấy chiếc ghe nhỏ chòng chành theo lượn sóng. Hồn tôi chao đảo như đợt sóng kia, mà cơn sống trong lòng vẫn ầm ỉ dội về từ quá khứ, mà cuộc tình của anh với tôi cũng như đợt sóng kia, đến nhanh vội vàng rồi chớp mắt bỗng tan như bọt biển.



Nhìn theo đợt sóng dâng cao
Dội về cuồn cuộn khác nào lòng ta
Hố sâu tâm thức mù loà
Nghìn cơn mê muội trôi qua cõi này !

  Từ ngày anh xa  tôi thì nàng Xuân cũng rủ áo ra đi, chưa một lần ghé qua vườn cũ. Chặng đường thiếu anh mùa Xuân trở thành vô nghĩa. Tôi thở dài trong cô đơn tiếc nuối, trong gió biển lạnh đầy, ngoài khơi từng cánh bườm cứ mãi trôi xa.
  Tôi cần có Sandy bên cạnh,  để nhắc nhở để tôi không xao lãng bổn phận mình. Tôi sợ một ngày trôi qua trong muộn phiền đợi chờ, sợ những đêm khuya làm bạn với sách với thơ.

Vắng chàng tình tự với thơ
Mạch sầu tím ngắt trên tờ hoa tiên

  Bạn bè thường ghé thăm là anh Lịch, còn anh Đoàn Xuân Sắc thì đôi lần. Tôi để ý sau này khi anh Lịch ghé thăm, thấy anh buồn như có tâm sự gì rất khó nói ra. Với tôi tình cảm tôi dành cho anh chị cũng như ngày nào, tôi kính mến anh và xem anh như người anh tinh thần, chưa bao giờ có ý nghĩ xúc phạm, chưa bao giờ vượt qua lằn ranh giới hạn, nhưng tôi cảm thấy hình như chị nghi ngờ sự thân mật giữa anh với tôi?
  Sandy về bất ngờ, anh nhờ hai người bạn trong trường sinh ngữ  làm chứng trong hôn thú, hai người bạn này  tôi chưa bao giờ gặp qua lần nào. Tôi rất ngạc nhiên là  tại sao Sandy không nhờ anh Lịch hay anh Sắc?
  Tờ hôn thú làm tại thị xã Nha Trang, khu phố Vĩnh Nguyên ngày 24-1-1971. Chủ tịnh khu phố là ông Nguyễn Viết Trác.





  Lần đầu tiên tôi được làm vợ chánh thức trên pháp lý, dù anh là  người Mỹ nhưng tôi rất hãnh diện vì không còn mặc cảm là nhân tình tạm bợ. Biết rằng chỉ là manh giấy nhưng trên thực tế cái giá trị là nó cho tôi một cuộc sống bảo đảm. Tôi cám ơn anh đã cho tôi làm vợ, cho tôi một niềm tin trong cuộc sống lứa đôi. Thầm cảm ơn Nha Trang đã dành riêng cho tôi qua nhiều ưu ái.

Bão lòng chừng đã nằm yên
Nắng vui ghé lại trao niềm ước mơ
Bão tan biển vẫn xanh lơ
Thuyền trăng đâu lại bến bờ tự do !

  Trên đường về xe lướt qua hàng dương, nắng nhúnn hẩy reo vui như chia xẻ niềm vui mà bao năm qua tôi chờ đợi. Biển hôm nay sóng vỗ nhẹ hơn thường ngày, bão đã tan rồi bên kia dãy núi oan khiên.Cảm ơn đời vẫn còn chút mầu xanh.



  Ngày 26-1-1971,  Sandy phải trở lại Đà Nẳng, anh bảo tôi bán bớt đồ đạc, giữ lại chiếc xe Kawasaki và anh muốn tôi dọn ra Đà Nẳng vì anh không thể về thăm tôi thường xuyên được. Chiếc xe jepp tôi đã bán cho một người Mỹ trong cư xá, tôi mua chiếc vòng ngọc trị giá 200 đô, là món quà lưu niệm để ghi nhớ miền đất Nha Trang thiên đường đã cho tôi tự do và hạnh phúc.
  Sau khi ly dị tất cả tài sản đều để lại cho vợ trước và con, lương của anh cũng được tự động trừ ra tiền cấp dưỡng cho 4 đứa con nên lương còn lại chẳng bao nhiêu, chúng tôi bắt đầu lại bằng hai bàn tay trắng.  Khi ly dị trong giao kèo với vợ trước, chia hết tài sản cho vợ và chỉ cấp dưỡng khi anh còn tại ngủ, đến khi anh giải ngủ thì kể như chấm dứt.  Sau hai tháng anh đi làm tài chánh dễ thở hơn, những gì tôi thích anh mua ngay dù nó có đắc đến đâu, nhưng tôi biết cách sống giản dị nên không đòi hỏi những gì quá đáng.




Phố chiều đông đúc rừng người
Đôi tay tình tự tiếng cười đắm say
Ta đi giữa phố lạnh đầy
Lạnh từ tim óc lạnh gầy thịt da

  Vài chiếc xe GMC  đổ xuống cạnh chợ Tết, nào là áo tàu bay, lính Thuỷ, Đồng Đế... từng cặp nắm tay choàng vai âu yếm dạo phố, trong họ hạnh phúc biết bao, khiến tôi cảm thấy lẻ loi và thiếu thốn một cái gì đó  mà từ lâu tôi không giải thích được. Thì ra tôi thiếu tiếng nói "anh và em". Lúc ấy tôi mới thấu hiểu tại sao phần nhiều các bà có chồng Mỹ  đều có bồ Việt để sơ cua, để có người tình đi nhảy nhót, dạo phố... có sống trong hoàn cảnh đó ta mới cảm thông sự cô đơn thiếu thốn của họ.

Dù anh nghèo bạc nghèo tiền
Nhưng giầu nhân ái thêm duyên bao đời 

  Nhờ có con là chiếc bùa hộ mạng nên tôi đã vượt qua mọi cám dỗ, không vì sự thiếu thốn đó mà đi tìm cho mình một người bồ Việt, bởi bên tôi có người chồng chung thuỷ cũng là một ân nhân mà tôi nguyện suốt đời đền đáp ân ấy. Dù anh nghèo, không đẹp trai, nhưng có cái dẹp tiềm ẩn bên trong và trái tim từ ái độ lượng, tôi kính trọng anh bởi tánh thanh liêm và lòng thành thật.



Chiều nay dạo phố một mình
Người vui chung bước ta nhìn mà mơ
Phố chiều nắng úa bơ vơ
Cô đơn ta bước hững hờ người qua...

 Cả thời gian sống tại Nha Trang, dù có Sandy nhưng tôi vẫn dạo phố một mình. Nhìn thiên hạ  mà tiếc nuối bâng quơ, chân bước theo làn sóng người mà trí lại buông lung  về khung trời kỷ niệm xưa, nhớ khu lao động Bảy Hiền  với mái tôn, được che mát bởi tàng cây trứng cá, nhớ lại cuộc tình chấp nối với 7 ngày hạnh phúc ngắn ngủi rồi chết tức tưởi theo vạt nắng cuối ngày.



Bảy ngày hạnh phúc bay xa
Chết theo ảo vọng đời ta bẽ bàng
Bảy ngày gương vỡ tình tan
Nói chi thì cũng lỡ làng cùng ai !

   Kiếp này tôi đã nợ Nhơn người Quân Y của Tiểu Đoàn 3 Dù một món nợ ân tình,  và không làm sao trả được. Những đêm một mình tôi lại nghĩ đến anh, tin chiến trận đến hồi khốc liệt làm tôi lo lắng, không biết anh có thoát khỏi những đạn bom vô tình? Tôi cầu nguyện cho anh, cho tất cả những chiến sĩ ngoài chiến trường, tôi đã khóc thật nhiều và mệt mỏi ngủ vùi trong ác mộng. Tôi lại mơ thấy anh nhưng không rõ nét, chỉ mờ mờ rồi mất hút. Tôi giật mình choàng tỉnh, mà bên tai chỉ nghe tiếng gió rít ngoài hiên. Đêm cư xá buồn tênh, gió  thật mạnh làm những hàng dương rung rẩy, gió tuốt đi những lá bàng vuột khỏi cành, ngoài khơi từng đợt sóng dâng cao, hình như bão đã về !

Khói bom che lấp người thương
Che phương trời cũ nẽo đường chiến chinh
Em về qua lối sông Dinh
Bụi mờ che khuất bóng hình người thương !



    Nếu tôi không có chí quật cường, nếu như tôi cứ cam chịu số phận như các phụ nữ khác, thì bây giờ tôi vẫn còn sống cảnh chồng chung, cảnh làm vợ bé  chịu những cảnh bất công. Từ khi đặt chân lên Nha Trang như vừa thoát ra trong cái lưới thiên la địa võng, bao nhiêu may mắn đưa đến, đời tôi thăng hương, thì không dại gì vướng vào chuyện tình yêu để mang sóng gió cho đời mình. Hai năm sống tại Nha Trang  là hai năm hạnh phúc nhất, dù chưa quên hẳn chuyện đau thương dĩ vãng, dù chưa quên người tình Quân Y năm xưa, dù đôi khi cô đơn, nhưng tôi vui vì đã tròn ân nghĩa, tròn bổn phận làm con, làm vợ và làm mẹ. Đôi khi chuyện buồn chỉ thoáng qua như áng mây mỏng rồi bay đi.
  
Mây vẫn bay mây quen đời phiêu lãng
Chở dùm ta năm tháng dấu phong trần
Xót xa đau những giòng sông khô cạn
Còn lại gì chỉ một bóng phù vân !





   Tôi rất muốn ra từ giã anh chị Lịch, nhưng khi hình dung sắc mặt lạnh lùng của chị nên tôi bỏ ý định. Anh thường dạy anh văn cho mấy cô lấy Mỹ, không biết anh có lẹo tẹo với cô nào không? Tôi không trách chị có ấn tượng không tốt trong giới có chồng Mỹ, mà chính tôi cũng lên án họ. Trong âm thầm tôi từ giã anh chị Lịch và vẫn không quên những ân nghĩa của anh tôi không bao giờ quên và mong có ngày đền đáp.
   Ngày 1-2-1972, tôi bay về thăm con và cho gia đình biết sẽ dọn ra Đà Nẳng. Tôi không bao giờ dám liên lạc bằng thư vì sợ lọt vào tay Tư Xê, mình cẩn thận trước hay hơn.
  Một mình tôi thu dọn đồ vào thùng, từng cái chèn, từng đôi đủa, từng tấm ảnh, gói theo những kỷ niệm vui buồn của Nha Trang. Ngày mới ra tôi chỉ có một va li nhỏ, sau hai năm phải thuê xe chở. Tôi nghĩ mình như con kiến quá tham lam dù đầy vẫn cứ tha thêm vào tổ, đôi khi những món không cần, bỏ thì tiếc nên thùng nào cũng nhét đầy cứng như nêm.
   Sau khi đặt cọc tiền xe  và hẹn giờ đón họ trước cổng Phạm Phú Quốc. Sau mấy tiếng đồng hồ khuân vác, đồ đạc được cột dây và đậy lại kỷ càng, người tài xế hơi lo ngại vì chiếc xe Kawasaki  không có giấy tờ. Tôi liều bảo họ nếu bị xét  bị thu thì thôi, cũng bởi Sandy không hiểu luật lệ cứ nằng nặc bảo phải đem xe ra cho bằng được. Tài xế để lại xe trong cư xá cho an toàn, và bảo tôi mua nhiều bánh kẹo mang theo.
  Tôi quét dọn từ trong ra ngoài, đi từ trước ra sau, nhìn lại lần cuối căn nhà của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Hạnh mà tôi đạt cho nó cái tên
(căn nhà hạnh phúc). Nhìn cây bàng nhánh khẳng khiu trơ trụi mà buồn thiu như lòng kẻ ra đi, bên cạnh nhà cây dương liễu như thầm thì lời đưa tiễn, mà cây hoa hoàng hậu tím bên rào cũng bâng khuâng như lòng kẻ sắp lên đường.

nhà Thiếu Tá Nguyễn Hữu Hạnh
cư xá Phạm Phú Quốc (Nha Trang)

Gó đưa tan tác lá bàng
Lối về cư xá Trường An lạnh đầy
Rồi mai trả lại nơi này
Những ngày tháng rộng đềm gầy nhớ thương !

  Nhìn cặp chim chìa vôi ríu rít chuyền cành mà lòng bùi ngùi khi sắp từ giã nơi kỷ niệm của những tháng ngày tự do. Từ giã Nha Thành, tôi lưu luyến miền đất lành bạn quý, đây là miền đất thiên đường đã cho tôi sự tự do vĩnh cữu, cho tôi một người chồng thật thụ với hạnh phúc tràn đầy. Xin chân thành tri ân Nha Trang đã cho tôi những ngày sống bình an, nơi tôi lột xác bỏ lại sau lưng cái qua khứ thương đau !

Về Trung mà dạ nao nao
Con đường Phú Quốc nghẹn ngào tơ vương
Xa dần mờ bóng thuỳ dương
Giã từ lòng những luyến thương Nha thành !

  Con đường Phạm Phú Quốc mất hút, mà con đường Duy Tân bỗng buồn hiu hắt. Nha Thành sáng nay mây âm u một mầu trắng đục. Biển động mạnh, từng đợt sóng loạn cuồng ồ ạt vài bãi cát, thấy trắng quá một rừng hoa. Tôi nhìn lại một lần cuối, hình như trời Nha Trang bỗng rưng rưng lệ...



(Xin đọc tiếp Định Mệnh  8
về miền Trung)