Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2015

Định Mệnh- Tết Mậu Thân 1968





   Bút Ký:   Định Mệnh 3


   Tết Mậu Thân 1968

      Tác giả:  Thanh Hiền- Dị Nhơn

      Bell Thành phố sương mù   2015

     Xuất bản năm  2004












Tết Mậu Thân 1968

Đêm Xuân tiếng pháo rộn ràng
Hoà theo tiếng súng đầu làng nổ vang
Đêm Xuân mang đến tóc tang
Thịt tan... máu đổ... lệ tràn  Cố Đô




Tổng công kích năm MẬU THÂN
kể từ ngày 29/1/1968




   Lợi dụng việc bỏ giới nghiêm và lệnh hưu chiến do chính họ ưng thuận. Việt Cộng đã mở cuộc tổng công kích trên toàn thể miền Nam tự do để đánh vào các lực lượng của quân đội VNCH trong giờ  đón mừng Xuân mới.  Giữa tiếng pháo Xuân xen lẫn tiếng súng của Việt Cộng bùng nổ. Hậu phương đang yên lành, đang mừng đón Xuân sang, trong giây phút biến thành tiền tuyến.
   Đêm giao thừa 30 Tết, tức ngày 29 tháng 1 năm 1968. Việt Cộng đồng loạt tấn công vào 5 thị xả thuộc vùng 2 Chiến thuật.
  Thị xả Nha Trang lúc 0 giờ 30
  Thị xả Darlac  lúc 1 giờ 30
  Thị xả Kontum lúc 2 giờ 00
  Thị xả Qui Nhơn  lúc 4 giờ 10
   Thị xả Pleiku lúc 4 giờ 40
  Đồng thời, Việt Cộng pháo kích và đột nhập vào Tổng Hành Dinh của Quân đoàn 1 lúc 3 giờ 40 sáng. Cũng trong đêm này, VC đột kích vào Chi Khu Hội An, pháo kích vào thị xả Quảng Trị, phi trường Đà Nẳng, phi trường Non Nước về phía Nam  Đà Nẳng khoảng 4 km và pháo kích tấn công nhiều đồn bót lẻ tẻ trên toàn quốc. Cả 5 thị xả trên và Tồng Hành Dinh Quân Đoàn 1 đều bị VC  lọt vào. Tuy nhiên tại Qui Nhơn, Nha Trang và Pleiku áp lực của VC đã được giải toả nhanh chóng.
   Tổng hành dinh của Quân đoàn 1 cũng đẩy lùi địch quân trong vài giờ đồng hồ. Các lực lượng Việt Cộng tại các thị xã Ban Mê Thuột và Kontum cũng bị đẩy lui. Tuy nhiên, tại hai thị xã này, Việt Cộng đã bám sát và tạo áp lực mạnh quang vùng. Sau nhiều ngày chiến đấu, quân đội VNCH mới hoàn toàn làm chủ tình hình. Khi xảy ra vụ tấn công đêm giao thừa, chính quyền trung ương VNCH đã thông báo ngay cho các địa phương biết để kịp phòng bị.
   Sáng ngày Mồng Một Tết (30/1/1968), trên đài phát thanh quốc gia Sàigòn Tổng Thống Nguyễn  Văn Thiệu tố cáo Việt Cộng vi phạm trắng trợn việc hưu chiến trong dịp Tết và tuyên bố huỷ bỏ lệng ngưng bắn của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà.





Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

   Đêm mùng 1 Tết , tức 24 giờ sau cuộc tấn công vào các tỉnh lỵ miền Cao Nguyên và miền Trung, Việt Cộng mở các cuộc tấn công vào đô thành Sàigòn- Chợ Lớn và cá tỉnh lỵ miền Nam. Tính theo kế hoạch tổng công kích, Việt Cộng đã đồng loạt  mở các cuộc tấn công và đột kích vào 25 tỉnh lỵ  và thị trấn trong số 44 tỉnh của VNCH thời gian như sau:
  Tại Vùng 1 Chiến Thuật:
Huế bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 02 giờ
Quảng Trị bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 04 giờ
Quảng Tín bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 04 giờ
Quảng Ngãi bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 04 giờ
  Tại Vùng 2 Chiến Thuật:
Bình Thuận bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 3 giờ 25
Tuyên Đức bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 Tết lúc 02 giờ
  Tại Vùng 3 Chiến Thuật:
Thủ đô Sàigòn-Chợ Lớn-Gia Định bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 02 giờ
 Bình Dương bị tấn công đêm mùng 2 rạng mồng 3 lúc 04g25
 Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh bị tấn công lúc 08g30 sáng mồng 2 Tết
  Biên Hoà bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 03 giờ
 Long Khánh bị tấn công đêm mồng 4 rạng mồng 5 Tết lúc 01 giờ
  Tại Vùng 4 Chiến Thuật:
 Phong Dinh bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 03 giờ
 Vĩnh Long bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 lúc 03g30 Kiến Hoà bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 03 giờ Định Tường bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 04 giờ
 Kiên Giang bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 02g 40
 Vĩnh Bình bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 4g 15
 Kiến Tường bị tấn công đêm mồng 4 rạng mồng 5 lúc 04g 15
 Bộ Tư Lệnh Biệt Khu 44 bị tấn công đêm mồng 6 rạng mồng 7 lúc 1g 25
 Gò Công bị tấn công đêm mồng 7 rạng mồng 8 lúc 2g 35
 Bạc Liêu bị tấn công đêm 12 rạng 13, tức ngày 10/2/68
 Như vậy trong 44 tỉnh lỵ, Việt Cộng đã tấn công vào 28 nơi. Cuộc tấn công của VC kể ra cũng khá linh hoạt, tuy không diễn racu2ng một lúc nhưng khoảng cách của các trận đánh ở các tỉnh lỵ không qua rời rạc. 
 Tại Sàigòn,Quân Lực VNCH kịp thời đưa quân tăng viện vào thủ đô để đối phó. Quân số trực tiếp tham chiến tại thủ đô tính đến ngày 4 tháng 2/1968 đã lên tới 10 Tiểu Đoản, không kể các lực lượng Cảnh Sát đô thành.


 Lịch sử Sài Gòn




    Địa danh Sàigòn tồn tại trên nhiều thế kỷ, khoảng trên 300 năm, trước đó Sàigòn  có nhiều tên khác nữa. Đến năm 1668 Sài gòn có tên là Huyện Tân Bình, lúc này chỉ có khoảng 5.000km, phía Tây là sông Sàigòn.
   Vào thời kỳ cổ đại, Sàigòn thuộc đế quốc Phù Nam.Đầu thề kỷ 17 vùng đất này, lúc đó là một làng nhỏ, dân cư thưa thớt và mang tên Prei Nokor, nằm trong tranh chấp giữa Chân Lạp và Chiêm Thành.
  Năm 1623, Chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha II (năm 1920 cưới Công Chúa Ngọc Vạn của chúa Nguyễn) cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sàigòn) và Kas Krobei (Bến Nghé).Đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng cũng là địa điểm qua lại và nghĩ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Compuchia và Xiêm La. Cùng khi đó, người Việt bắt đầu tập trung sinh sống tại xung quanh hai đồn  này. Chẳng bao lâu , hai đồn thu thuế trờ thành trung tâm thị tứ công nghiệp và thương nghiệp sầm uất.
  Năm 1698, chúa Nguyễn cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam, thiết lập chính quyền, các đơn vị hành chánh, chia đặt tỉnh lỵ... Nguyễn Hữu Cảnh lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long và xứ Sàigòn làm huyện Tân Bình, đặt ra hai dinh Trấn Biên 
(Biên Hoà) và Phiên Trấn (Gia Định). ("Trấn" là khu vực quân sự, chưa ổn định việc cai trị). Từ đó, xứ Sàigòn  trở thành huyện Tân Bình, huyện sở đặt ở làng Tân Khai. Những xóm làng đầu tiên  của Sàigòn  là xóm Hoà Mỹ (gần đường Cường Để) xóm Tân Khai (đường mé sông khoảng cầu Mống), xóm Long Điền, xóm Than, xóm Bàu Sen (cây Mai), xóm Phú Giáo, xóm Lò Bún, xóm cây Củi, xóm Rẫy Cái, xóm Ụ Ghe. Sàigòn trở thành một thị trấn đông đúc với hơn  một vạn dân và Minh Hương là xã đầu tiên của người Hoa tại Tân Bình.




  Năm 1790, Sàigòn được nâng lên thành Kinh Gia Định, nơi đóng đô của Nguyễn Ánh chống quân Tây Sơn.Vào năm 1802, dưới triều vua Gia Long, Gia Định Kinh được đổi thành Thành Gia Định ( vì kinh đô là Huế), thuộc Trấn Gia Định.
  Sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, thành Gia Định bị phá huỷ, một thành mới nhỏ hơn gọi là thành Phụng được xây dựng. Thành này không chống nổi cuộc vây hãm của quân Pháp vài năm sau đó.

Công trường Lam Sơn

  Vào năm 1859, sau khi chiếm được Sàigòn, người Pháp đã gấp rút công trình xây dựng Sàigòn thành một đô thị lớn. Ngày 11 tháng 4 năm 1861, Phó Đô Đốc Charner ra nghị định xác định địa giới Sàigòn lúc đó: phía đông là sông Sàigòn, phía bắc là rạch Thị Nghè, phía nam là rạch   Bến Nghé, phía tây từ chùa Cây Mai đến đồn Kỳ Hoà, diện tích 25km.




  Từ năm 1954 sau Hiệp định Genève, Sài gòn chính thức là thủ đô của Việt Nam Cộng Hoà. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 143-NV đổi " Đô thành
 Sàigòn- Chợ Lớn"  thành " Đô thành Sàigòn" và chia thành 8 quận hành chánh (được đánh số: Quận 1 tới quận 8), dưới quận là phường (có 54 phường), dưới phường là khóm. Đầu năm 1967 hai xã An Khánh và Thủ Thiêm của quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định kế cận, được sát nhập vào Đô thành Sàigòn lập nên Quận 9. Tháng 7 năm 1969 thành lập Quận 10, Quận 11 trên cơ sở tách một phần Quận 5 và Quận 6. Lúc này thành phố có diện tích 71 km với dân số 2 triệu người.



Toà Đô Chính

  Thành phố tiếp tục phát triển  và được mệnh danh là  "Hòn ngọc 
Viễn Đông" (The Pearl of the Far East) hay "Paris Viễn Đông"  với một hạ tầng cơ sở được xây dựng khá hoàn chỉnh.
  Trong những ngày tết Mậu Thân , VC muốn gây tiếng vang trong dư luận, đặc biệt là trong dư luận Hoa Kỳ nơi phong trào phản chiến đang lan rộng. VC muốn cho mọi người nhìn thấy rằng ngay cả Dinh Độc Lập là biểu tượng quyền lực của miền Nam cũng có thể bị chúng uy hiếp. Chính vì vậy mà ngay trong cuộc tấn công đầu, hai mục tiêu quan trọng nhất của chúng là Dinh Độc Lập và Toà Đại Sứ Hoa Kỳ. VC tập trung nỗ lực vào khu lao động đông dân chúng. Ý đồ của  chúng là tuyên truyền và kích  động dân chúng nổi dậy trong kế hoạch "tổng công kích, tổng khởi nghĩa". Cộng Sản Hà Nội đã ra lệnh cho các cán bộ và cán binh VC tấn công vào đô thị của VNCH phải thực hiện ba nhiệm vụ quan trọng sau đây: (a) phá hoại Hoa Kỳ về  phương tiện quân sự và chính trị. (b) phá hoại VNCH bằng cách làm tan rã quân đội và làm cho quần chúng không tin tưởng ở chính quyền quốc gia. (c) Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị bằng cách xúi dục người dân nổi dậy lật đổ chánh phủ.





  Kết quả là VC đã hoàn toàn thất bại, trong khi đó họ đã phá huỷ 50.000 căn nhà của dân, đem chết chóc cho 14.000 đồng bào từ già cả đến trẻ em và "vô sản hoá" 70.000 người đa số là dân lao động. Ngoài ra điều dã man chua từng thấy trong lịch sữ loài người là họ đã xua những lực lượng gồm 7 phần 10 con nít vào lò lửa chiến tranh và mở những cuộc pháo kích vào những khu gia cư nghèo khó, đông đúc không có lấy một cơ quan quân sự, để trả thù sự bất cộng tác của dân chúng.
  Cộng Sản dám làm tất cả, dùng bất cứ phương tiện gì dù có tàn ác nhất để đạt đến mục tiêu, tức chiến thắng cho họ.




  Lực Lượng tham chiến của Cộng Sản  Bắc Việt

 Cộng Sản bắt đầu tấn công vào Sàigòn vào lúc 2.00 giờ sáng ngày mồng 2 Tết. Việt Cộng dùng lực lượng đặc công F100 để tấn công vào các vị trí quan trọng. Trong khi đó các đơn vị chủ lực từ các vùng ngoại ô tiến vào các khu đông dân cư kêu gọi dân chúng nổi dậy. Các đơn vị Cộng quân tấn công vào Sàigòn Chợ Lớn và Gia Định đặt dưới quyền điều động  của BTL tiền phương phía Bắc do Trần Văn Trà, Mai Chí Thọ và Lê Đức Anh chỉ huy và BTL tiền phưng phía Nam do Võ Văn Kiệt và Trần Bạch Đằng chỉ huy. 





Danh hiệu những đơn vị VC trực tiếp tham chiến với các mục tiêu tấn kích được ghi nhận trong nội ô đô thành và ở vùng phụ cận như sau:
  Một Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 271 (Thuộc Công Trường 9) tăng cường cho TĐ/56/U80 đánh vào Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung và vùng phụ cận.
  Các Tiểu Đoàn 267 và 269 phối hợp với thành phần của trung Đoàn 271 đánh vào phi trường Tân Sơn Nhất.
  Một Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 273 Công Trường 9 tấn công Chi Khu Thủ Đức.
  Tiểu Đoàn 1 Củ Chi, được tăng cường một Tiểu đoàn của Trung Đoàn 101 (thuộc công trường 7) và một thành phần của Tiểu Doàn 2 Cơ Giới đánh chiếm các căn cứ quân sự Gò Vấp.
   Tiểu Đoàn 2 Gò Môn phối hợp với đặc công J1/F100 tấn công Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH ở cổng số 4.
  Tiểu Đoàn 3 Dĩ An, còn được gọi là "3/165A" tấn công khu vực Hàng Xanh.
  Tiểu Đoàn 4 Thủ Đức, còn được gọi là "4/165A tấn công khu xa lộ Sàigòn.
  Tiểu Đoàn 6 Bình Tân, còn được gọi là "6/165A" tấn công vùng Phú Thọ-Bà Hạt.
  Tiểu Đoàn 508 Long An tấn công vùng Bình Tây
  Biệt Động Đội F 100 tấn công vào nhiều mục tiêu khác nhau, gồm đài phát thanh, cổng số 5 ở Bộ Tổng Tham Mưu, Dinh Độc Lập, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, Toà Đại Sứ Hoa Kỳ, và Toà Đại Sứ Phi Luật Tân.





  Diễn Tiến:
 6.00 giờ ngày chiều ngày mồng 1 tết (30/1/1968), được lệnh tăng phái gấp cho Biệt Khu Thủ Đô một Đại Đội để giữ an ninh. Đại Đội 15 Nhảy Dù do Đại Uý La Trịng Tường chỉ huy được chỉ định thi hành và đặt dưới quyền điều động của cục An Ninh Quân Đội.
  Đại Đội 15 Nhảy Dù chia ra thành 3 toán, một Trung Đội trấn giữ toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở đường Hồng Thập Tự, mợt Trung Đội giữ an ninh vòng đai Cục An Ninh Quân  Đội ở đường Mạc Đỉnh Chi và một Trung Đội trấn giữ  trên lầu đài Phát Thanh Sàigòn làm thành phần trừ bị cho một đơn vị Đại Đội Cảnh Sát Dã Chiến và chỉ đặt một chốt chặn có 4 binh sĩ trên đường Phan Đình Phùng phía trái đài phát thanh. Đến nửa đêm tình hình vẫn yên tỉnh.






  Trong khi đó Trung Đoàn 8 Nhảy Dù chuẩn bị lên đường ra Đà Nẳng để hoán chuyển Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù về hậu cứ dưỡng quân và chỉnh trang đơn vị. Vì vậy, 2 Đại Đội Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù đã sẳn sàng với trang bị đầy đủ lúc nửa đêm đã có mặt tại bãi bốc phi trường Tân Sơn Nhất cạnh Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù chờ lên phi cơ.
  Đến 1 giờ sáng (ngày 31/1/1968) VC khởi đầu tấn công vào cổng gác Nguyễn Du của Dinh Độc Lập bằng B-40 và hàng loạt AK-47. Cổng này nằm trên đường Nguyễn Du ngay góc đường Thủ Khoa Huân. VC dự tính bắn sập vọng gác này để vượt rào vào bên trong đặt chất nổ, toán Cảnh Sát Chi Tao Đàn liền nhào tới bắn trả và đẩy chúng vào một cao ốc 5 tầng bỏ trống đang xây cất dở trên đường Thủ Khoa Huân và tiêu diệt.





  Sau đó lệnh báo động được ban hành, cấm tất cả mọi xe cộ kể cả xe tuần tiểu xuất nhập vào các cổng thự quốc gia kể cả đài phát thanh. Đúng 2,55 giờ, một xe Quân Cảnh và một xe Simca dân sự đến dừng lại trước cổng đài phát thanh và bất thần tấn công toán gác cổng. 3 binh sĩ Nhảy Dù tử thương ngay tức khắc. Lực lượng Nhảy Dù  phản ứng nhanh chóng, điều động toán trực trên nóc đài phát thanh và Trung Đội tại  cục An Ninh Quân Đội phản công quyết liệt (Toán Cảnh Sát Dã Chiến đã lặn mất). sau 2 giờ quần thảo, Trung Đội Nhảy Dù tiêu diệt 14 tên Việt Cộng dự định đột nhập đài phá thanh để phát đi lời kêu gọi dân chúng hưởng ứng nổi dậy.





  Vào khoảng 3 giờ 45 rạng ngày mồng 2 Tết, Đại Đội 1 của Tiểu Đoàn 269 Việt Cộng xung phong vào phi đạo Tân Sơn Nhất, tiền đồn OF 50-51 và OF 49-50. Bị phản công mạnh, Việt Cộng bèn cắt hàng rào mở một đường nhỏ xuyên qua bãi mìn để đánh xuyên hong cố gấp rút thanh toán hai tiền đồn này. Sau khi nhổ xong hai tiền đồn này, Việt Cộng bắt đầu dàn hàng ngang và di chuển qua một bãi trống ở cuối phi đạo. Tại đây Việt Cộng nhìn thấy rõ ràng một bãi đậu phi cơ đủ loại ở cách đó chừng 600 mét. Lúc đó là 5 giờ  20 sáng.



   Giữa lúc đó, hai chiến xa M-8 của lực lượng phòng thủ xuất hiện bắn cản đường. Hai Đại Đội Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù (chờ lên phi cơ để không vận ra Đà Nẳng) được lệnh tăng phái trợ chiến  BTL Không Đoàn 33 bảo vệ phi trường. Loạt súng phản công đầu tiên đã chận đứng toán Việt Cộng khi họ chỉ còn cách phi đạo khoảng 400 mét. Những cán binh Việt Cộng hốt hoảng tìm chỗ ẩn nấp và bố trí nhưng không kiếm được một điểm tựa nào trong cánh đồng cỏ hoang này.






  Hai chiến xa M-8 dần dần tẻ qua hai bên rồi bắn chéo cạnh xe để nhường chính điện cho đơn vị Nhảy Dù phản công. Quân Việt Cộng đột nhiên bị dồn vào một vị thế bất lợi. Họ tháo lui và chạy vào cố thủ trong các tiền đồn đã chiếm được.
   Khoảng 8 giờ sáng, một đoàn thiết vận xa của Hoa Kỳ từ Củ Chi về Sàigòn  di chuyển ngang qua phía đầu phi đạo, bị Việt Cộng bắn chận làm cháy hai chiếc. Các thiết vận xa đã phản công bắn đại bác ngay vào đồn OF 50-51 khiến Việt Cộng phải rời khỏi khu vực phòng thủ và rút vào khu vực hãng dệt Vinatexco. Sau đó lực lương Nhảy Dù xung phong và chiếm lại các tiền đồn OF và bao vây Cộng quân trốn trong hãng dệt. Trong trận này có 162 Việt Cộng bỏ thây. Một xe ủi đất đã được đem đến để đào một hố rộng để chôn họ.







 Sáng mồng 2 Tết, các đơn vị Việt Cộng mưu toan đánh úp các cơ quan đầu não của Việt Nam Cộng Hoà đã không thành công trong đêm trước. Việt Cộng không đánh vào bất cứ một cơ quan nào của Hoa Kỳ. Và với các cánh quân nói trên, họ hy vọng sự tiếp tay nổi dậy của dân chúng, cố gắng lan tràn vào các khu đông dân cư. Dân chúng thấy Việt Cộng đến đâu, đều lũ lượt dắt díu nhau vào trong thành phố.




  Ngay trong đêm mùng 2, lực lượng phản công của chính phủ được tung ra. Trong  khi đó Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù chia quân làm hai cánh. Cánh thứ nhất gồm hai Đại đội được phái tới giải toả cổng số 4 của Bộ Tổng Tham Mưu. Nhưng suốt ngày vẫn không giải quyết xong vì Việt Cộng núp trong khu nhà bằng gạch của Trường Sinh Ngữ Quân Đội và bắn ra dữ dội.
   Cánh thứ hai với hai Đại Đội còn lại bảo vệ đầu phi đạo Tân Sơn Nhất ở Bà Quẹo và ngăn chận Cộng quân xâm nhập khu hãng dệt Vinatexco.






  Vào buổi trưa, toàn bộ Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù từ Vũng Tàu được đưa về phi trường Tân Sơn Nhất chờ lệnh. Liên đoàn 5 Biệt Động Quân với bốn Tiểu Đoàn (Tiểu Đoàn 30.33.34 và 38) đang trấn đóng vòng quanh khu bán nguyệt Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh với Hóc Môn. Đêm hôm đó, Liên Đoàn 5 nhận được lệnh gửi ngay hai Tiểu Đoàn Biệt Động Quân về giải cứu thủ đô. Tiểu Đoàn 30 và 38 Biệt Động Quân lập tức đã tiến vào thành phố trước khi trời sáng. Tiểu Đoàn 30 Biệt Động Quân đến khu vực Hàng Xanh Xa Lộ lúc 4 giờ sáng ngày mồng 2 Tết. Tại đây, các binh sĩ Mũ Nâu này đã chạm súng dữ dội với Việt Cộng. Trong khi đó, Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân xuất phát từ Nhà Bè vào 4 giờ sáng mồng 2 Tết đến giải toả khu Phú Thọ, Trần Quốc Toản.







  Vào buổi chiều, đài phát thanh loan tin chiến sự tại khu Hàng Xanh cho biết Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà đang cầm chân một đơn vị VC. Mội tin khác loan đi vào hồi 17 giờ yêu cầu dân chúng Bà Quẹo tránh xa khỏi hảng dệt Vinatexco, nơi VC đã bị Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù bao vây và dồn chúng vào khu vực này. quân đội sẽ oanh tạc vào đúng 18 giờ. Loa phóng thanh cũng kêu gọi toàn bộ lực lượng VC trong khu vực này ra đầu hàng. Hãng dệt Vinatexco sau đó đã bị oanh tạc thiêu rụi vào giờ ấn định trên. Quyết định ban ra vì sợ VC lợi dụng đếm tối sắp đến để tăng cường thêm quân đánh vào Tân Sơn Nhất.






  Sáng mồng 3 Tết, (1/2/1968) tám Tiểu Đoàn trừ bị đã có mặt tại đô thành. Các lực lượng này được phối trí mở các cuộc phản kích như sau:
-Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù bảo vệ đài phát thanh và làm lực lượng trừ bị.
-Tiểu Đoàn 2 Thuỷ Quân Lục Chiến đi giải toả cổng xe lửa số 2 (Gia Định)
-Tiểu Đoàn 4 Thuỷ Quân Lục Chiến giải toả trại Cổ Loa và Phù Đổng.
 -Tiểu Đoàn 1 Thuỷ Quân Lục Chiến chận đường rút lui của VC tại trại Cổ Loa.
-Tiểu Đoàn 30 Biệt Động Quân giải toả khu Hàng Xanh Xa Lộ.
-Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân giải toả khu Phú Thọ, Bà Hạt.
-Tiểu Đoàn 6 và 8 Nhảy Dù giải toả cổng số 4 trại Trần Hưng Đạo.




  Cánh quân thứ hai của VC mãi tới 7 giờ 05 sáng ngày mồng 2 Tết
mới bắt đầu đánh vào cổng số 4 Bộ Tổng Tham Mưu. Việt Cộng lọt được vào cổng nhưng chỉ bám khu trường Sinh Ngữ Quân Đội không tiến sâu vào được.
  Đến 9 giờ, 2 Đại Đội Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù đến tăng cường Bộ Tổng Tham Mưu. Lực lượng này với một vài thiết giáp M-41 mở cuộc phản công ở cổng số 4. Việt Cộng nằm trong các công sự phòng thủ có sẵn, nấp theo các nhà cửa và từ các cao ốc tại đường Võ Duy Nguy nối dài bắn vào khiến các binh sĩ Việt Nam Cộng Hoà không thể tiến được. Một chiến xa M-41 bị B-40 bắn cháy, một số chiến sĩ Nhảy Dù bị thương. Cả ngày mùng 2 Tết Việt Cộng bám giữ khu cổng số 4.




  Sáng ngày mùng 3 Tết, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù điều động Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù đến phối hợp với Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù đã hiện diện để thanh toán mục tiêu cổng số 4.
 Trước cuộc phản công, các phi cơ trực thăng thay nhau xạ kích khu hành chánh của Đại Đội Tổng Hành Dinh, khu trường Sinh Ngữ Quân Đội, khu trường Tổng Quản Trị. Kế đó các đơn vị Nhảy Dù theo hướng từ cổng số 3 và cổng số 2 tiến lên. Trước hoả lực mạnh mẻ của Nhảy Dù từ hai mặt dàn rộng ra bắn vào. Việt Cộng phải mở đường máu rút ra phía rào trốn vào đường Võ Di Nguy. Cuộc hành quân này hoàn tất lúc 10 giờ sáng. Việt Cộng bỏ lại chiến địa 10 xác chết.
  



 Trong ngày này, lực lượng Nhảy Dù đã hoàn tất nhiệm vụ giải toả cổng số 4 trại Trần Hưng Đạo ngay trong buổi sáng. Trực thăng võ trang phải oanh kích vào khu vực này gây thiệt hại về doanh trại cho trường Sinh Ngữ Quân Đội. Trường Tổng Quản Trị, Trung tâm Huấn Cụ và Thính Thị và một vài thiệt hại nhỏ cho các cơ sở khác kế cận. Cũng trong ngày hôm đó, các Tiểu Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến chiếm lại được các trại Cổ Loa và Phù Đổng. Cả hai nơi này đều bị VC trấn giữ từ hôm xảy ra các trận đánh.




  Trong ngày mùng 3 Tết, hoạt động của VC trên toàn quốc có phần suy giảm tuy họ vẫn bám sát được  vào một thành phố như Sàigòn, Huế, Ban Mê Thuộc,Kontum, Mỹ Tho, và Vĩnh Long. Còn tại các nơi, các phần tử VC thất tán trong các khu dân cư và đang bị tiêu diệt. 




  Ngày 5 tháng 2 năm 1968  Chiến dịch Trần Hưng Đạo được khai sinh do Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà) đích thân điều khiển để cấp thời giải toả thủ đô và thanh toán địch.

  



Đại Tướng Cao Văn Viên
(Tổng Tham Mưu Trưởng VNCH)



   Thiếu Tướng Trần Thanh Phong (Tham Mưu Trưởng Liên Quân) làm Tham Mưu Trưởng chiến dịch. Chuẩn Tướng Cao Hảo Hớn là Tham Mưu Phó.





Thiếu Tướng Trần Thanh Phong 
(Tham Mưu Trưởng Liên Quân)


  Chiến dịch Trần Hưng Đạo bao gồm một địa bàn hoạt động gồm thủ đô cùng các vùng ven đô, và cuộc hành quân đại quy mô này đã được chia làm sáu khu vực trách nhiệm (đến ngày 9/2/1968 thêm một khu vực trách nhiệm khác được giao cho lực lượng Hoa Kỳ phụ trách) và chiến dịch này chấm dứt vào ngày 17/2/1968 .


Thiếu Tướng Dư Quốc Đống
(Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù)

  1- Khu vực trách nhiêm A do Thiếu Tướng Dư Quốc Đống (Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù)  chỉ huy. Cuộc hành quân tảo thanh VC  tại khi A do hai chiến đoàn Nhảy Dù phụ trách. Đó là Chiến Đoàn 2 (với các Tiểu Đòn 6 và 8) phụ trách khu vực Bà Quẹo, Phú Thọ Hoà, Bà Điểm, và Tân Phú. Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù (với Tiểu Đoàn 1 và 3 Nhảy Dù) phụ trách khu vực Cổ Loa, Xóm Mới, và Gò Vấp.Trong khi đó, tại Bộ Chỉ Huy Khu A có Tiểu Đoàn Pháo Binh Nhảy Dù và Chi Đoàn 2/10 Thiết vận xa trú đóng.




  2-Khu vực trách nhiệm B do Đại Tá Yên (Tư Lệnh Thuỷ Quân Lục Chiến) chỉ huy. Khu B thuộc vùng trách nhiệm của binh chủng Thuỷ Quân Lục Chiến gồm Chiến Đoàn "B". Tiểu Đoàn PHáo Binh (cùng trực thuộc Thuỷ Quân Lục Chiến) và Chi Đoàn 1/5 Chiến Xa phụ trách khu Gia Định, xa lộ và Thủ Đức
  3- Khu vực trách nhiệm C do Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan,  (Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia) chỉ huy. Khu  C tương đối yên tỉnh . Trách niệm tảo thanh Việt Cộng được trao cho các đơn vị Cảnh Sát đô thành và Cảnh Sát  Dã Chiến phụ trách. Cuộc hành quân này  bao gồm các quận hành chánh 1,2, 3,4 và 5.





Tướng Nguyễn Ngọc Loan

Tướng Nguyễn Ngọc Loan và bức  ảnh hành quyết


  Vào lúc sáng 4:30  hôm đó, Nguyễn Văn Lém đã chỉ huy một đơn vị đặc công cùng với xe tăng của Tiểu đoàn cơ giới VC tấn công trại Phù Đổng của binh chủng Thiết Giáp ở Gò Vấp. Sau khi kiểm soát được trại lính, Bảy Lớp bắt giữ gia đình Trung Tá Nguyễn Tuấn và bắt Trung Tá phải chỉ dẫn cách xử dụng các xe tăng còn đe763 lại trong trại. Trung Tá Tuấn từ chối, thế là Bảy Lớp  giết toàn thể gia đình Trung Tá, gồm cả bà mẹ già 80 tuổi. chỉ một bé trai 10 tuổi tuy bị thương nặng nhưng được cứu sống.


đám tang gia đình Trung Tá Nguyễn Tuấn bị tên đặc
công Lém giết một lần


   Nhân chứng Nguyễn Trường Toại một thường dân đã kể ". Tôi biết hắn đã làm những gì, trong cuộc chạm súng với QLVNCH, hắn xử dụng trẻ em làm lá chắn, đầy trẻ thở vơ tội làm bia đở đạn. để QLVNCH không thể nổ súng, để cho đồng đội hắn tấu thoát".
  Hắn đã giết chết 34 thường dân vô tội và là tác giả mồ chôn tậm thể 34  đồng  bào này.




Tướng Loan xử  bắn tên Đại Uý đặc công 
Nguyễn Văn Lém (Bảy Lớp)


  Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn VC Nguyễn Văn Lém(Bảy Lớp) tại Chợ Lớn ngày 01/02/1968. Ngay hôm đó, mồng 2 Tết Mậu Thân , ký giả Eddie Adams đã chuyển bức hình Tướng Loan xử bắn tên đạc công Bảy Lớp từ Sàigòn đi khắp thế giới.
  Cả thế giới rúng động, và đám ký giả ngoại quốc, các phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ, Việt Nam,  Âu Châu và nhiều quốc gia khác, tận tình khai thác bức hình này.
  Và tấm hình đã đem lại oan nghiệt, cay đắng cho Tướng Loan; Eddie Adams đã nói là tấm hình của ông chỉ nói lên được một nửa sự thật. Ông đã ân  hận, giải thích trên truyền hình, truyền thanh , báo chí, để cảnh giác thế giới rằng họ đã hiểu lầm về ý nghĩa tấm hình của ông.
  Tấm hình là cái bánh, một nửa cái bánh là sự thật, một nửa cái bánh kia là sự sai, sự gian xảo,  sự lọc lừa và lầm lẫn. Thế mà cả thế giới nhắm mắt lại, bịt tai và im lặng, để cho Tướng Loan chết trong nỗi oan khiên, và VNCH chết tức tưởi trong nhục nhằn.


ký giả Eddie Adams


  4- Khu vực Trách Nhiệm D  do Đại Tá Trần Văn Hai (Chỉ Huy Trưởng BCH/BDQ) chỉ huy. Khu D thuộc vùng trách nhiệm của  binh chủng Biệt Động Quân, gồm Liên Đoàn 5 (với 4 Tiểu đoàn) được phân chia như sau: Tiểu Đoàn 33  phụ trách khu vực Bình Thới, Cầu Tre. Tiểu Đoàn 38  phụ trách khu vực Minh Phụng. Tiểu Đoàn 41 phụ trách khu vực Phú Định. Tiểu Đoàn  30 phụ trách khu vực Bình Đông. Các đơn vị  Biệt Động Quân  này phải hoạt động trên địa bàn  của các quận hành chánh 6, 7 và 8. Ngoài các lực lượng trên , Bộ Chỉ Huy Khu D còn có Chi Đoàn 5/1 Thiết Quân Vận, một Đại Đội Giang Thuyền  (hoạt động tại Quận 6) và một Đại Đội  Trinh Sát của Biệt Động Quân.





Tướng Trần Văn Hai

  5-Khu vực Trách nhiệm E do Chuẩn Tướng Ngô Dzu chỉ huy.. Khu E thuộc khu vực trách nhiệm của các quân nhân phục vụ Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Các quân nhân này ngoài nhiệm vụ tham mưu được tổ chức thành đội ngũ để phụ trách phòng thủ trại Trần Hưng Đạo và bảo vệ  các khu vực xung quanh trại này.





Tướng Ngô Dzu

  Ngoại trừ Tiểu đoàn danh dự liên quân, Đại đội 1 Quân Cảnh và các chi đội chiến xa M-41, thiết vận xa m-113 với Chi đội V-100 được tăng cường đều là những thành phần chiến đấu đã có sẵn, tất cả các Phòng, Sở, Tổng cục ở trong trại Trần Hưng Đạo đều phải tham gia vào tổ chức chiến đấu này.
  6-Khu vực trách nhiệm F do lực lượng Hoa Kỳ phụ trách. Khu F thuộc vùng trách nhiệm của lực lượng Hoa Kỳ gồm khu vực nam kinh đô và Tây Phú Thọ Hoà được tách ra khỏi khu D kể từ ngày 9 tháng 2/1968. Trong khuôn khổ chiến dịch Trần Hưng Đạo còn có một lực lượng Hoa Kỳ đóng quân ở vòng ngoài thủ đô.





   Ngày 6/2/1968 tại Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, lực lượng Nhảy Dù cũng chạm súng lẻ tẻ với Việt Cộng. Trận đáng kể nhất đã xảy ra tại Xóm Mới, Gò Vấp. Vào buổi trưa ngày 6 tháng 2/1968, Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù chạm súng mạnh với  một Tiểu đoàn Việt Cộng. Địa điểm xảy ra trận đánh ở Trại Phù Đổng, một cây số về phía Đông Bắc trại Cổ Loa. Ở đầu trận đánh, Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù đưa Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù  và chi đội chiến xa mới được tăng phái dẫn đầu tiến thẳng vào khu Xóm Mới, đến khu Lạng Sơn và Xóm Dừa liền bị Việt Cộng chận đánh bằng các loại súng nặng như thượng liên, đại liên và B-40 khiến một thiết vận xa M-113 bị bắn cháy và một chiến xa M-41 bị hư hại.





   Lúc này trực thăng đến dùng rocket bắn yểm trợ, vì vậy quân đội chánh phủ lên tinh thần và ồ ạt tiến quân cành lúc càng bám sát đối phương. Việt Cộng vội vàng kéo cờ trắng đầu hàng, các binh sĩ Nhảy Dù ngưng nổ súng để đón rước. Việt  Cộng lợi dụng lúc quân đội chánh phủ không tiếp tục bắn, họ tháo chạy nhưng vòng dây quân đội đã xiết chặt. Kết quả trận đáng gồm 120 Việt Cộng chết  với 35  vũ khí bị tịch thu. phía Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà có 12 binh sĩ tử thương cùng 42 bị thương.





   Vào ngày kế tiếp, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tiếp tực chạm địch mạnh tại vùng Thông Tây Hội phía Tây Bắc trại Cổ Loa. Tại đây có 60 Việt Cộng bị bắn hạ, 30 vũ khí đủ loại bị tịch thu.
   Tại khu C, Việt Cộng chận bắn Đại Đội 114 Nhảy Dù tại góc đường Tổng Đốc  Phương và Khổng Tử khi đơn vị này đến tăng    cường  cho khu D  nhưng chúng bị tiêu diệt ngay.






  Ngày 10/2/1968, tại đô thành Sàigòn-Chợ Lớn, quân đội VNCH  tiếp tục mở các cuộc lục soát trong nội thành và hành quân tảo thanh vùng ven đô. Các lực lượng Việt Cộng lần lượt rút ra xa đô thành.
  Theo một bản ước tính, lực lượng  Cộng Sản tính từ trước ngày mở cuộc tổng công kích 29/1/1968 được xác nhận khoảng 323,500 người. Số tổn thất của họ được ước lượng trong thời gian tổng công kích đến ngày 2/2/1968 là khoảng 45.000 người. Con số tổn thất này được phân loại như sau:
   18,600 chết: gồm cán binh đơn vị tác chiến
    4,000 chết: gồm cán binh thuộc các cơ quan hậu cần
    12,000 chết: gồm các thành phần du kích
     5,000 chết: gồm các thành phần cán bộ chính trị
     5,000 chết: gồm các thành phần phụ lực khác
  Như thế, chỉ trong vòng một tháng chiến đấu, có 45,000 quân Cộng Sản đã bị tiêu diệt trong các cuộc phản công của các lực lượng Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ.
   Trừ số tổn thất từ ngày tổng công kích, quân số còn lại của VC tính cho đến ngày 29/2/1968 là:110,600 cán binh tác chiến, 33,700 cán bộ tham mưu và chỉ huy hậu cần, 62,200 quân du kích (riêng rẻ), 79,000 cán bộ chính trị.





   Ngày 11/3/1968 Cuộc hành quân "Quyết Thắng" gồm khoảng 50,000 binh sĩ thuộc các đơn vị của 6 Sư đoàn và 2 Chiến đoàn Tổng trừ bị đã tham dự tại 5 tỉnh quanh thủ đô: Gia Định, Long An, Biên Hoà, Bình Dương và Hậu Nghĩa. 
  Phía Việt Nam Cộng Hoà, có các đơn vị thuộc Sư đoàn 5 và Sư đoàn 25 Bộ Binh, một Chiến đoàn Nhảy Dù, Một Chiến đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến, một đơn vị Biệt Động Quân và một số Cảnh Sát.





   Về phía Hoa Kỳ có các đơn vị thuộc Sư đoàn 9 và Sư đoàn 25. Kết quả của chiến dịch này không thu hoạch như mong muốn và  chủ lực của Việt Cộng đã lẩn trốn để tránh né các cuộc chạm súng.
  Các tin tức tình báo thu lượm được trong cuộc hành quân này cho biết phía CS đang chuẩn bị một cuộc tấn công mới vào QLVNCH quanh Sàigòn Gia Định.






Lịch sử cố đô Huế

   Tỉnh thừa Thiên nằm giữa miền Trung Việt Nam, có diện tích  5054km2, với 10 quận từ phía bắc giáp ranh với tỉnh Quảng Trị là Phong Điền, Quảng Điền, Hương Điền, Hương Trà. Phía nam thành phố Huế là hương Thuỷ, Phú Vang, Vinh Lộc, Phú Lộc, Phú Thứ, phía tây là Quận lỵ Nam Hoà. Tổng cộng có 73 xã. Tỉnh lỵ là thành phố Huế có diện tích 380km2 với dân    số khoảng 209.043 người. Huế có 3 quận đó là quận Hữu Ngạn, Tả Ngạn và quận Thành Nội.





   Theo từ nguyên, Huế là do Hoá tên nôm của Thuận Hoá đọc trại ra nhưng đến nay vẫn chưa tìm được xuất xứ. Vua Lê Thánh Tông 
(1460-1497) có lẽ là người đầu tiên nói đến địa danh Huế trong bài văn nôm "Thập giới cô hồn quốc ngữ văn". Trong đó có câu:"Hương kỳ nam vảy đồi mồi, búi an tức, bì hồ tiêu, thau Lào, thóc Huế, thuyền tám tầm chở đã vạy then". Bộ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim là bộ sử đầu tiên của Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, ngoài nguồn sử liệu truyền thống, tác giả đã xử dụng nguồn sử liệu của phương Tây, và tên Huế xuất hiện.
   Là cố đô của nhà Nguyễn (1802-1945), Huế mang nhiều sắc thái tiêu biểu cho dân tộc, nhân chứng của một chặng đường lịch sử, văn hoá, kiến trúc Việt Nam, nên trong hội nghị thứ 7 tại Catagenna, Columbia, tháng 12-1993, tổ chức UNESCO, đã công nhận Huế là di sản văn hoá của nhân loại cần bảo tồn.





 
Huế, bao gồm những công trình kiến trúc lịch sử cung điện và lăng tẩm của các tiên vương nhà Nguyễn. Kinh thành Huế do vua Gia Long cho khởi công xây cất năm 1805 mãi đến năm 1838 đời vua Minh Mạng mới xong. Đây là một toà thành hình vuông, mỗi cạnh 2.223m, bề cao 6,60m, chân thành có có hào sâu 4m, phía Đông Nam bên bờ sông Hương nhìn về phía trước là núi Ngự Bình. Ngoại thành hướng bắc có phái đài Mang Cá, ngoài ra còn có 10 cửa chính với những vọng lầu cao ngất, dùng để ra vào. 





  Toà thành được kiến trúc độc đáo, từ kiểu cách của Pháp cho tới nghệ thuật xây cất Á Đông, biểu hiện nét hoàng tráng, lộng lẫy nhưng không kém phần thơ mộng trang đài từ vách thành, vọng lầu, cửa ngọ môn... cho đến cung các được chạm trổ, điêu khắc hài hoà trong cảnh trí thiên nhiên tuyệt diệu.





  Từ năm 1366 Huế đã là thủ phủ của Đàng Trong, tức là hai Châu Ô, Rí do vua Chế Mân của Chiêm Thành, dâng cho nhà Trần làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân của Đại Việt, từ đó trở thành đất Thuận Hoá. Sau Tết Mậu Thân 1968, Huế chỉ còn là đống gạch vụn do Việt Cộng và bọn Việt Gian tàn phá.





 Ngoài ra Huế còn nhiều nét tiêu biêu khác như chùa Linh Mụ, cầu Trường Tiền, chợ Đông Ba, với trừng Quốc Học cổ kính nằm cạnh bờ sông với hàng phượng vỹ nở rộ mỗi độ hè về, núi Ngự Bình trước tròn sau méo, sông An Cựu nắng đục mưa trong, hồ Tĩnh Tâm sen nở ngút ngàn và Phú Vân Lâu trơ gan cùng tuế nguyệt.






  Cuối năm 1966 không hiểu lý do gì, trại Lực Lượng Ashau được rút bỏ sau khi bị CS tràn ngập vào ngày 12/3/66, nên thung lũng A Shau bị bỏ ngõ.Do đó CS lợi dụng cơ hội này chuyển vận một số lớn bộ đội và vũ khí để lập căn cứ và từ đây tấn công Huế năm 1968 với sự dẫn đường của đám Việt gian nằm vùng. Cũng vì lý do này mà Huế bị VC chiếm đóng lâu hơn các thành phố khác trong cuộc Tổng Công Kích Mậu Thân.



Mặt Trận Huế



Tướng Ngô Quang Trưởng



   Ngày 29/1/1968, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệng Sư Đoàn 1 Bộ Binh, cùng toàn thể quân nhân các cấp dự lễ chào cờ đầu năm tại Phú Văn Lâu. Ngay sau đó ông được tin trong đêm giao thừa, VC đã tấn công Qui Nhơn  và Nha Trang. Lệnh cấm trại ban hành tức khắc cho các đơn vị trực thuộc.

  Ngày 30/1/1968, sáng mùng 2 Tết, lúc 2.00 sáng, CS bắt đầu pháo kích hàng trăm quả đạn vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, Trung Tâm Huấn Luyện Đống Đa và Thiết Đoàn 7 Kỵ Binh ở An Cựu. Sau đó CS bắt đầu xâm nhập và tấn công vào Huế  bằng hai cánh quân chính.
   -Cánh thứ nhất là Đoàn 6 gồm các Tiểu đoàn đặc công K1,K2, K6 và K12 từ phía bắc bên tả ngạn sông Hương, tấn công Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh tại đồn Mang Cá, phi trường tây Lộc, Đại Nội.
  -Cánh thứ hai là Đoàn 5 gồm các tiểu đoàn K4A,K4B,K10 và K21 từ phía Nam, hữu ngạn sông Hương, hợp với Thành đội tấn công các cơ sở hành chánh phía nam.
  Ngoài ra còn có:
  -Đoàn 9 gồm 2 Tiểu đoàn 416, 418, từ Đồng Xuyên, Mỷ Xá,, dọc theo La Vân Thượng chiếm cửa Đông Ba.
  -Một cánh khác mang tên Đường 12 từ Phú Thứ, Đập Đá qua cầu Trường Tiền chiếm cửa Thượng Tứ.
  




  Cũng nên biết Việt Cộng đã lợi dụng những xáo trộn tại Huế trong các năm 1965-,1966, xâm nhập hoạt động móc nối dụ dỗ một số học sinh, sinh viên, quá nể nang các thầu giáo của mình mà phản bội lại Việt Nam Cộng Hoà. Thật ra mặt trận quan trọng nhất của VC ở Huế là mặt trận chính trị, vì vậy Hà Nội bất chấp máu xương của cán binh và thường dân vô tội, ra lệnh cho đám tàn binh phải cố thủ trong Đại Nội trong thực trạng bi thảm tuyệt vọng bởi các vòng dây của quân lực VNCH và sau ngày mùng 6 Tết có thêm sự tham chiến của Hoa Kỳ.
  (phụ trách công tác chính trị tổng khởi nghĩa, để lập chính quyền cách mạng ở Huế là Hoàng Kim Loan và Hoàng Lanh, đã vào nằm vùng từ lâu trong nhà một giám thị trường  Quốc Học là Nguyễn Đoá. Ngoài ra còn có Nguyễn Trung Chính, Nguyễn Hữu Vân (giáo sư trường Âm Nhạc Kịch Nghệ), Phan Nam, Nguyễn Thiết. Trái với dự đoán của CS, dân chúng Huế không hưởng ứng tổng khởi nghĩa lại còn bỏ trốn sang các khu bực có QLVNCH như Mang Cá, trường Kiểu Mẫu, Tiểu Khu Thừa Thiên, Bến Tàu, Phú Bài...




  Ngày 14-2-1968 đài VC phát thanh Hà Nội cho biết đã lập xong chính quyền cách mạng tại Huế, do Lê Văn Hảo làm chủ tịch, Đào Thị XuânYến và Hoàng Phương Thảo làm phó. Ngoài ra còn có cái gọi là Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hoà Bình được Hà Nội nặn ra ngày mồng 3 Tết (1-2-1968) cũng do Lê Văn Hảo, tiến sĩ về nhân chủng học tại Đại Học Huế làm chủ tịch Liên Minh Hảo trốn lính, năm 19953 qua Pháp du học và tiêm nhiễm cũ nghĩa Cộng Sản của Trần Văn Khê, Nguyễn Khắc Viện, nên vào các năm 1965,1966 dù đang sống trong cảnh giầu sang, chức trọng nhưng vẫn tán tận lương tâm, theo các tên VC nằm vùng là Hoàng Phủ Ngọc Tường và Tôn Thất Tiềm gia nhập MTGPMN rồi ra bưng cuối tháng 12/1967.
  Tính ra từ lúc khởi đầu, nhờ lợi dụng dịp hưu chiến nhiều đơn vị VNCH cho các quân nhân về nhà ăn Tết, nên VC đã chiếm được hầu hết các cơ sở hành chánh, khu Đại Nội, Chợ Đông Ba, các cửa Thượng Tứ, An Hoà, Chánh Tây... lực lượng Cộng quân đã chiếm lĩnh hầu hết bên trong thành Nội, từ cổng thành cho đến các  diểm cao kiên cố, chỉ còn một lỏm nhỏ Mang Cá (Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh/ Khu1CT), đang bị vây kín, nhờ các toán Tiền Trạm của Nhảy Dù trợ chiến chống giữ. Cơ sở MAVC, Tiểu  Khu Thừa Thiên, đài phát thanh, Trường Kiểu Mẫu và cầu tàu Hải Quân vẫn do Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà kiểm soát.





Trung Tá Lê Quang Lưỡng

  Trong lúc đó Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 2 Nhảy Dù do trung Tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy vừa được lệnh thay thế Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù của Trung Tá Đào Văn Hùng vào ngày 27 tết. Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù đóng tại Phong Điền (Sịa). Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, sau 3 tháng hành quân trong vùng Phá Tam Giang trở ra, đáng lẽ được về  Sàigòn dưỡng quân,    nhưng trên đường di        chuyển bằng xe ra phi trường Phú Bài, đến ngang cửa chánh Tây, đã bị Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh khu 11 CT, cho Quân Cảnh chận lại, trao công điện mang tay, cho lệnh trở ngược ra Phong Điền, tìm chỗ đóng quân chờ lệnh (29 tết). Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù ra trấn giữ Quảng Trị và Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù thay vì được về Sàigòn nghĩ ngơi lại phải di chuyển bằng đường bộ ra trấn thủ tại Đà Nẳng.
  Sáng sớm mùng 2 Tết (30/1/1968), Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù cùng Chi Đoàn 7 Thiết Giáp được lệnh điều động gấp rút băng đồng gần 20 km từ vùng Phong Điền, phía bắc sông Cổ Bi, về giải cứu cố đô Huế.





   Tiến dọc theo hai bên Quốc lộ 1 từ Bắc xuống phía Nam, Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù di chuyển bộ, lục soát phía Đông Quốc Lộ 1, Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù phía Tây, giữa Quốc Lộ 1 và thiết lộ Xuyên Việt.
  Xế trưa mồng 2 Tết, vừa qua khỏi thôn Hương Trà về phía Nam, cách đầu cầu An Hoà khoảng 500m Tiểu đoàn 2 chạm địch mạnh, giao tranh ác liệt với địch quân. Một Đại Đội Trưởng bị thương nặng. Đại Uý Nguyễn Hữu Nghi (cố Thiếu Tá Nghi xuất thân khoá 5 Trường Bộ Binh Thủ Đức). Tiểu Đoàn phó bị tử thương. Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù tạm dừng lại, để thanh toán lực lượng Cộng Sản chận viện nơi đây.
    Trong khi đó Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù được lệnh tiếp tục tiến nhang về hướng Thành Nội Huế. Khoảng 2 giờ chiều, cánh quân đầu gồm 2 Đại Đội 72 và 73, do Đại Uý Lê Minh Ngọc (Đại Đội Phó) chỉ huy, bị lọt vào ổ đột kích của Cộng quân ngay bờ Bắc thôn An Hoà. Cộng quân đã đào hố ém quân giữa đồng vắng vừa gặt xong đậy rơm lên, nguỵ trang phủ kín, có hoả lực đại liên từ thôn An Hoà bắn ra yểm trợ. Đại Đội 73 do Trung Uý Phạm Như Đà Lạc chỉ huy, bị tổn thất gần hết Trung đội đi đầu. Trung Uý Lê Phước Cương tử trận, Đại đội 73 vẫn bám chặt trận tuyến trên phần đất  giữa quốc lộ và thiết lộ. Đại đội 72 đi trục phía Tây, do Đại Uý tạ Văn Ngọc chỉ huy, cũng chạm địch nặng khu nghĩa trang An Hoà. Đại Uý Tạ Văn Ngọc bị tử thương nơi đây. Cánh quân đầu của Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù phải tạm dừng lại tại phía Bắc thôn An Hoà để tái tổ chức đội ngũ.






  Thiếu Tá Lê Văn ngọc (Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù), từ phía sau gửi lên 2 thiết vận xa M.113, tăng cường hoả lực cho cánh quân của Tiểu Đoàn phó Lê Minh Ngọc.Đến 5 giờ chiều, Đại Uý Lê Minh Ngọc điều động 2 Đại đội 72 và 73 dàn hàng xung phong tấn chiếm thôn An Hoà, tiến đến chân thành nội, kiểm soát khoảng quốc lộ 1 bên ngoài cửa chánh Tây.
   Trong trận chiến vừa qua, phía Nhảy Dù có 131 thương vong trong số đó có 40 bị tử thương , 4 chiếc trong tổng số 12 Tiết Vận xa bị bắn cháy. Về phio1a Cộng quân có trên 250 xác tại trận, 5 từ binh va 96 vũ khí đủ loại bị tịch thu.
  Khi Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn & Nhảy Dù theo sau, vừa tiến vào an Hoà, thì bị Cộng quân từ phía cầu Bạch hổ pháo kích bằng nhiều loại đạn súng cối 82 ly. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Lê Văn Ngọc bị trọng thương. Các Trung Uý Nguyễn Lô, Trọng Nhi bị thương. Lệnh từ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh trong trại Mang Cá truyền ra, chỉ định Đại Uý Lê Minh Ngọc thay thế Thiếu Tá Lê Văn Ngọc, chỉ huy Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, tiếp tục giải cứu Thành Nội Huế.






   Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù gói ghém nhanh chóng thương tử binh, và điều động Đại đội 73 do Trung Uý Phạm như Đà Lạc vượt lên trước, bám chặt theo bờ hào sâu, dọc theo chân Thành  Nội tiến về hướng trại Mang Cá ( Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh). Đại Đội 73 khinh binh len lỏi theo các hào sâu phá cửa hậu nhà xác, vào được vào bên trong thành, ngay doanh trại Đại Đội 1 Quân Y của Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Thương bệnh binh và nhân viên Quân Y tại đây bị Cộng Quân sát hại khá nhiều. Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù tiếp tục tiến về hướng Đông, chiếm các cao ốc vây quanh trại Mang Cá.
  Cộng quân đang vây chặt Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, chỉ còn cách một sân cờ nhỏ, bị lực lượng Nhảy Dù đánh bọc phía sau lưng nên rối loạn đội hình bỏ chạy toán loạn làm bia có các chiến sĩ mũ đỏ tác xạ. Khi tiến chiếm cao ốc cuối cùng, Trung Uý Phạm Như Đà Lạc Đại Đội Trưởng đại Đội 73 lại bị thương nơi chân phải.
  Sau khi vượt qua được sân cờ trước Trung tâm Hành QuânSư Đoàn 1 Bộ Binh, Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù là đơn vị đầu tiên, từ bên ngoài tiến vào, bắt được tay với Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, khuya mồng 2 rạng ngày mùng 3 Tết.





  Ngày 31/1/1968, sau khi thanh toán xong lực lược chận viện của Cộng quân tại Hương Trà, sáng mồng 3 Tết, Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù cũng nương theo cửa An Hoà được khai thông nhập thành, được lệnh tiến về hướng Đông, giải tỏa khu Gia Hội, cửa Đông Ba. Phần lớn Thành Nội Huế vẫn còn nằm trong tay Cộng quân. Giao tranh khắp nơi khi lực lượng Nhảy Dù tiến vào, hoả lực của VC rất mạnh núp trong nhà dân, trong các công sự phòng thủ kiên cố của toà cổ thành bắn ra, trong khi đó quân ta  chiến đấu không có hoả lực yểm trợ.
  Ngày này lúc 2.00 giờ sáng. VC pháo kích và tấn công vào pháo đội C3 Nhảy Dù tại An Lỗ nhưng bị đẩy lui; chỉ 1 binh sỉ bị thương nhẹ.
  Giao thương binh, tử binh lại cho đơn vị Dù tiền trạm, nhận đạn dược và lương khô qua loa, Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Đại Uý Lê Minh Ngọc chỉ huy lại được lệnh xuất thành Mang Cá, chiếm khu hồ Tĩnh Tâm, rồi  tiến chiếm khu phi trường Tây Lộc. Pháo binh 105 ly từ cây số 17 (An Lỗ) đã vừa mút tầm, mà lại không còn đạn nổ để yểm trợ. Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù yêu cầu tác xạ đạn khói, làm màn che, để tiến quân qua phi đạo, diệt khẩu đại bác không giật tại đây, đã làm tê liệt mọi di động trong trại Mang Cá suốt mấy ngày qua.
   Trời mưa phùn, gió thật lạnh trong mấy ngày Tết. Phi trường nhỏ này được Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù chiếm lại vào lúc xế chiều ngày mùng 3 Tết Mậu Thân. Một điều đáng chú ý là từ ngày khởi đầu trận chiến. Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù đụng nặng ở An Hoà, và Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù đụng nặng ở Hương Trà, người bạn đồng minh của chúng ta vẫn "bình chân như vạt" án binh bất động không can thiệp. Năm ngày sau, tức là ngày mùng 6 Tết quân Mỹ mới nhào vô, Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ mới bắt đầu tham chiến giải toả khu An Cựu (và chạm địch rất nặng tại nơi đây).





  Sau khi làm cỏ Trung Đoàn Sông Lô của Cộng quân tới trưa mồng 3 Tết, 2 Tiểu đội Tiểu Đoàn 2 và 7 Nhảy Dù mới giải  toả được từ cửa An Hoà đến cửa Tây và cửa Bắc Thành Nội Huế. Sau khi bàn giao phi trường Tây Lộc lại cho 1 đơn vị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh giữ phi trường. Đại Uý Lê Minh Ngọc điều quân trở về Hồ Tĩnh Tâm, giao thương binh, lấy đạn dược, và được lệnh trực chỉ tái chiếm Trường Nũ Trung Học Thành Nội, làm bàn đạp để xuất phát tái chiếm khu cao ốc Thành Đại Nội (Hoàng cung cũ). Trong ngày mùng 4 Tết, Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù đã tái chiếm xong khu vực Trường Nữ Trung Học Thành Nội.
   Trại Mang Cá không có đủ đạn M.16 và M.19, nên những ngày sau đó, các đơn vị Nhảy Dù đã xử dụng luôn cá các vũ khí tịch thu của địch quân như tiểu liên AK-47, súng phóng lựu B-40, và cả luôn lương khô (bánh in Trung Cộng) trong túi đeo lưng trên xác Cộng quân. Vì 1 Đại đội trưởng tử thương và 2 Đại đội trưởng khác bị thương, nên đơn vị thiếu cán bộ chỉ huy, Đại Uý Lê Minh Ngọc chỉ định Trung Uý Vũ Đình Nguyên, y sĩ trưởng Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù kiêm nhiệm Đại Đội trưởng Đại Đội 70 (Đại đội súng nặng). 




  Đêm mồng 4 Tết, Trung Đoàn Cù Chính Lan, Một đơn vị chính quy của CSBV vừa từ Bắc xâm nhập vào Nam, từ hướng cầu Bạch Hổ tăng cường xâm nhập vào thành nội, lấn chiếm lại khu phi trường Tây Lộc, vừa được TĐ7ND giải toả hôm trước. Buổi trưa, xe chỉ huy của Thiết Đoàn 7 KB bị trúng đãn B-40 gần Ty Cảnh Sát Huế, Trung Tá Phan Hữu Chí  bị tử thương. Tại thành Mang Cá, VC cố gắng tấn công vào nhiều đợt và chiếm lại những nơi Nhảy Dù giải toả.





  Ngày mồng 5 Tết 2/2/1968, Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù  sau khi làm chủ tình hình tại  Quảng Trị, được trực thăng vận đến bệnh viện Nguyễn Tri Phương trong đồn Mang Cá vào sáng ngày mồng 5 Tết. Vừa vào đến thành nội Huế. Chiến đoàn 1 Nhảy Dù cho lệnh TĐ9ND tiến ra tái chiếm lại phi trường  thành nội lần nữa. Từ thành Mang Cá, TD9ND xuât phát tái chiếm phi trường Tây Lộc. Lực lượng Nhảy Dù phải phá tường, leo cửa sổ để di chuyển tử nhà nầy sang nhà khác. Các ngã tư, cao ốc, các ngỏ hẻm đều có thượng liên của VC chờ sẳn.
  Sau khi tái chiếm phi trường Tây Lộc, TD9ND bàn giao phi trường này  lại cho Trung Đoàn 3 Bộ Binh (vừa được   trực thăng vận từ An Lỗ vào). Và TĐ9ND được lệnh tiến về phía Gia Hội, trợ chiến cho TĐ2ND giảo toả khu Gia Hội, Đông Ba. Tại đây Cộng quân xích chân vào xạ thủ vào chân súng đại liên, kháng cự khá mạnh.





  Sáng ngày mồng 5 Tết, với 2 thiết vận xa tăng cường, TĐ7ND bắt đầu tấn công vào khu Đại Nội. Một chiếc M113 ủi sập một lổ tường để mở trục tiến quân, đã bị hoả lực bên trong bắn cháy ngay tại chỗ. Chiếc còn là được TĐ7ND xử dụng bắn triệt hạ các tổ quan sát và bắn tỉa của Cộng quân, đặt trên các ngọn cây cao dọc bờ thành Đại Nội.
  Tấn công nhiều hướng khác nhau, TĐ7ND đã đột nhập được vào khu Đại Nội (Hoàng cung cũ) sáng mồng 6 Tết, và hoàn toàn làm chủ tình hình khu vực này vào buổi chiều cùng ngày. Ngày mồng 7 Tết, TĐ7ND được lệnh tiến chiếm khu Phú Vân Lâu(nơi có dàn súng thần công cũ), và ngày mùng 8 Tết, kiểm soát được bờ phía Bắc sông Hương, khu vực giữ câu Bạch Hổ và cầu Tràng Tiền.





  Ngày 3/2/1968 (mồng 6 Tết) tại cửa chánh Tây, nhiều VC đội nón cối, mang Ak47,B-40 qua lại canh gát trên bờ thành. Nhảy Dù phải chờ trời tối cho khinh binh lén leo lên tường dùng lưỡi lê đánh cận chiến với địch chiếm được một đầu cầu rồi cho đơn vị ồ ạt tấn công, khiến địch trở tay không kịp. Sau 2 ngày giao tranh ác liệt, Nhảy Dù đã chiếm lại cửa thành phía Tây và giao lại cho Sư Đoàn 1 Bộ Binh trấn giữ. Lực lượng Nhảy Dù tiếp tục sang tái chiếm cửa Đông Ba.





  Ngày này, phía hữu ngạn sông Hương, lực lượng Mỹ mới bắt đầu tham chiến gởi Tiểu Đoàn 2 và 5 Thuỷ Quân Lục Chiến, và một Chi Đoàn chiến xa hành quân giải toả khu vực MACV và chiếm lại toà nhà đại biểu chánh phủ.
  Ngày 5/2/1968 tại cửa Đông Ba, VC đặt thượng liên trên cửa thành rất kiên cố, TĐ2ND  thử xung phong nhiều lần nhưng vô  hiệu. Sau đó Bộ chỉ huy Chiến đoàn Dù phải điều động pháo đội C Pháo Binh Nhảy Dù bắn trực xạ dập tắc khẩu thượng liên của địch, các binh sĩ Nhảy Dù  vừa bắn vừa xung phong thật nhanh, chiếm lại được cửa thành Đông Ba. Xác tên xạ thủ đại liên của địch còn nằm trên súng, chân bị xiềng.





  Ngày 7/2/1968  lúc 11.30  VC tấn công  vào Tiểu đoàn 4 và 3 Bộ Binh tại cửa chánh Tây, và cũng trong ngày này VC giật sập cầu Tràng Tiền. Ngày 8/2/1968  Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù được lệnh vượt qua hồ Tĩnh Tâm để tái chiếm cửa Thượng Tứ (cửa thành hướng Nam đi thẳng tới Đại Nội). Trận chiến ác liệt kéo dài 2 tuần lễ, các đơn vị thuộc Chiến đoàn 1 Nhảy Dù sau khi đánh tan tác 2 Trung đoàn Sông Lô và Cù Chính Lan của CSBV  cũng đã bị thiệt hại nhiều.




  Ngày 9/2/1968 phía Nam sông Hương, lực lượng Hoa Kỳ đẩy lui VC ở các khu vực Khu Đại Học, sân vận động, Phú Cam và Nhà Ga, VC bỏ chạy về Nam Giao.
  Tính đến ngày này, giao tranh với lực lượng Hoa Kỳ, VC có 934 chết tại chỗ, 4 bị bắt, 307 súng các loại bị tịch thu. Hoa Kỳ có 31 tử thương, 201 bị thương nặng, 80 bị thương nhẹ.





  Ngày 10/2/1968, người ta bắt đầu thu lượm xác VC. Các lực lượng Địa Phương Quân, phối hợp với các Khoá sinh Trung tâm Huấn Luyện Đống Đa tổ chức hành quân tảo thanh các khu vực đã được giải toả.
  Ngày 12/2/1968, Chiến đoàn 2 Thuỷ Quân Lục Chiến bắt đầu được không vận đến Huế  để thay thế Chiến đoàn 1 Nhảy Dù để triển khai một cuộc hành quân càn quét các tên VC nằm vùng còn sót lại.
   18.00 một đơn vị Thuỷ Quân Lục Chiến Hoà Kỳ băng qua sông Hương cập bến Bao Vinh vào cổng sau Thành Nội.





  Ngày 13/2/1968, Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tiếp tục đổ bộ vào Thành Nội tăng cường cho QLVNCH. Trong khi đó Pháo Binh và phi cơ oanh kích dữ dội vùng Lai Chữ, nơi đặt BCH VC.
  Vào ngày 15/2/1968, có lệnh từ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh/ Khu 11CT cho toàn bộ Trung đoàn 3 Bộ Binh từ An Lỗ di chuyển vào Thành Nội thay thế vị trí Chiến đoàn 1 Nhảy Dù, để lực lượng Nhảy Dù được trả về cho Bộ Tổng Tham Mưu nhận nhiệm vụ mới. Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù được lệnh từ Chiến đoàn 1 Nhảy Dù vưo875t qua bờ Nam sông Hương (vì cầu Tràng Tiền đã bị Cộng quân giựt sập 1 nhịp) lục soát an ninh khu này, để Chiến đoàn 1 Nhảy Dù chuẩn bị di chuyển bằng xe đến phi trường Phú Bài, trở về hậu cứ ở Sàigòn.





  Tình hình tại bờ Nam sông Hương  từ khu Phú Cam chưa được an ninh hoàn toàn. Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù đã chứng kiến cảnh chiến trường tan hoang nơi đây, với chó gặm xác VC, với xe tăng M.41 và M.48 của Mỹ bị cháy... quân trang quân dụng vất bừa bải, dân chúng hồi cư "khóc như ri", cho hay VC trói dân từng chùm 20 người bằng dây điện thoại, bịt mắt dắt xuống hướng Phú Thứ chôn sống tập thể.





Mẹ già gào thét như điên
Đàn con chết cháy oan khiên tro tàn

(Cộng Sản bắt đi thanh niên từ 15,16 đến ông già 60-70 giam ở chùa Từ Đàm. Đến đêm, họ dẫn đi lên đường núi và qua sông. Sau đó tàn sát hết mọi người trong tư thế bị trói. Khi tàn  sát thì dùng súng máy, trung liên, đại liên, cả lựu  đạn hoặc đập đầu bằng cuốc sẻng, báng súng. Các xác đó đã bị vùi xuống khe)





Quan tài chẳng đủ mà chôn
Xuân trong máu lệ, xuân buồn thở than!

  Đặc biệt tại khu An Cựu này, TĐ7ND cũng đã giải cứu được Linh Mục Tuyên Uý Nhảy Dù Vũ Ngọc Đáng, đang mặc thường phục lẫn trốn trong dân chúng.
  Sau 3 tuần lễ giao tranh đẫm máu dưới thời tiết lạnh lẽo rét mướt để giải toả cố đô Huế, CĐ1ND được các đơn vị bạn thay thế. Ngày 21/2/1968, toàn bộ các dơn vị Nhảy Dù lần lượt được không vận về Sài gòn để nhận nhiệm vụ mới.
  Ngày 19/2/1968, Chiến đoàn A Thuỷ Quân Lục Chiến mở chiến dịch Sóng Thần 739/68. Ngày 22/2 hai Tiểu đoàn 21 và 39 Biệt Động Quân được tăng cường tại Huế và VC bắt đầu thoái chạy.
  Ngày 23-2 VC bị đẩy ra khỏi Huế, lá cờ VNCH lại tung bay trên kỳ đài ở Phú Vân Lâu. Tính chung CS tàn sát đồng bào Huế nhiều nhất là tại khu dân cư Gia Hội vì vùng này bị VC chiếm giữ lâu nhất từ ngày mùng 2 Tết (30-1) đến 22-2-1968 mới được Biệt  Động Quân giải  toả, bởi vậy VC và Việt gian mới có cơ hội giết nhiều đồng bào vô tội một cách man rợ không thể tưởng tượng nổi đối với người đồng chủng chỉ vì đã  không theo họ.

  





  Ngày 25/2/1968 chiến cuộc chấm dứt tại Huế với đổ nát, điêu tàn, nhà cửa, cầu cống, cây cối, đường xá gần như tử địa với xác người nằm la liệt sình thối.
  Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm tìm được các  "mồ tập thể ", có tới hàng ngàn xác,  hoặc vài ba trăm và có xác bị chôn còn bị xiềng xích.


  Huế đô thành biển máu
Núi Ngự chất bằng xương
Tràng Tiền cầu đã gẫy
 Xương khô  nấm mộ buồn!

Huế điêu tàn đổ nát
 An Cựu  máu nhuộm hồng
 Ngôi mộ chôn ngàn xác
 Goá phụ  khóc thương chồng  






   Trận Mậu Thân 1968 tại Huế kéo dài 26 ngày, hàng chục ngôi mộ tập thể được phát hiện xung quanh Huế. Nạn nhân bao gồm phụ nữ, nam giới, trẻ em và trẻ sơ sinh.
  Thị Trưởng Huế khi ấy là Đại Tá Lê  Văn Khoa.Theo Nguyễn Lý Tưởng, cựu dân biểu khu vực Thừa Thiên, trong 22 địa điểm tìm được các mồ chôn tập thể, người ta đếm được 2,326 sọ người. sau tết, các gia đình kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4,000 gia đình.




   Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà thì đưa ra danh sách 4.062 nạn nhân được họ xác định là đã bị bắt cóc hoặc bị giết. Theo báo cáo của Việt Nam Cộng Hoà, nhiều thi thể được tìm thấy ở tư thế bị trói buột, bị tra tấn và đôi khi bị chôn sống.






Thần kinh xác lấp chung mồ'
Người dân vô tội xương khô chất chồng

   Theo báo cáo tổng kết của Douglas Pike, lúc ấy giờ là Cục Tâm Lý chiến của cơ quan thông tin Hoà Kỳ năm 1970.
  "Câu chuyện về Huế chưa chấm dứt. Nếu ước đoán của giới chức Huế được coi như gần đúng, khoảng 2.000 người vẫn còn mất tích. Tổng kết về người chết và mất tích như sau:
 *Tổng số dân sự tử vong: 7.600 chết lẫn mất tích
 *Chiến trường: 1.900 bị thương vì chiến cuộc, 944 thường dân chết vì chiến cuộc.
 *Nạn nhân những ngôi mộ tập thể:

  1.173 - số tử thi tìm trong đợt đầu sau cuộc chiến 1968
  809 - số tử thi tìm đợt nhì, kể cả tìm thấy ở đụn cát, tháng 3-7-69.
  428- số tử thi tìm trong đợt thứ ba, trong khe Đá Mài (khu Nam  Hoa) tháng 9 -1969.
  300- số tử thi tìm trong đợt thứ tư, khu Phú Thứ, tháng 11- 1969.
  100-số tử thi tìm thây các nơi trong năm 1969
  1.946 -mất tích (tính đến năm 1970).




Chiến trường chiến sĩ hy sinh
Quốc kỳ buồn bã phủ hình hài anh
Trẻ thơ nước mắt chảy quanh
Khăn tang goá phụ tóc xanh nhuốm buồn!


   Dù nhiều bài bình luận cho rằng những con số tử vong không do CSBV gây ra? Nhưng có một điều là nếu CSBV không lợi dụng ngày Tết để Tổng Công kích thì đâu có thảm cảnh xảy ra cho tất cả miền Nam. Những đứa trẻ thơ mất cha, những goá phụ mất chồng, mẹ mất con... những trẻ thơ tật nguyền, chết vì chiến tranh. hãy nhìn đứa trẻ bên quan tài của cha với nước mắt lưng tròng. Nếu CS
không tham vọng chiếm miền Nam thì đâu có thảm cảnh này. 




Cha em nằm xuống chiều qua
Đỏ lên đôi mắt lệ nhoà đau thương
Quê em thành bãi chiến trường
Xác nằm chật đất máu xương rã rời


  Nhà văn nữ Nhã Ca đã viết bài "Giải Khăn Sô Cho Huế", và cầu Tràng Tiền  đã gẫy 1 nhịp, cắt đứt huyết mạch Thần Kinh. Và bản nhạc "Một Chiếc Cầu Đã Gẫy" được nhạc sĩ Trầm Tư Thiêng sáng tác. Rỗi mỗi cái Tết  bài hát đó như một lời cầu kinh để tưởng niệm  những người chết tức tưởi trong giờ phút thiêng liêng đó.





Tuổi thơ qua rất vội vàng
Tang cha... tang chị bàng hoàng khăn sô


  Những hình ảnh đau lòng của chiến tranh, những nét đau khổ trên gương mặt bà mẹ trên    tay ôm xác con,  những bà mẹ tay xách nách mang, mà bao quanh khói lửa mờ mịt. Cảnh tàn phá của bom đạn,  máu chảy thây phơi, cảnh thương tích trên thân có làm cho những người gây ra chiến tranh đau xót chút nào không?




Mẹ già ôm xác con thơ
Nhà tan cửa nát xác xơ thôn làng
Nghe chăng trời hỡi tiếng than?
Đâu đây thần chết còn đang tung hoàng


Căn Cứ Khe Sanh






       Căn cứ Khe Sanh toạ lạc trên một trảng cao  của một ngọn núi cao nhất vùng Đông Trị trong dãy Trường Sơn, cạnh sông Rao  Quan, một chi nhánh của sông Quảng Trị. Phía Bắc và Tây Bắc có 4 ngọn đồi án ngữ là 881 Bắc, 861, 558 và 881 Nam. Khe Sanh chỉ cách biên giới Lào- Việt chừng 2 cây số trên đường số 9 chạy theo hướng Đông-Tây nối liền Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị, ngang qua Cam Lộ, Cà Lu, xuên qua biên giới Lào-Việt tới tận Savannakhet bên Lào. Vì Lào nằm trong đất liền nên người Pháp xây dựng đường số 9 để thông thương ra bờ biển Việt Nam. Trong cuộc chiến Việt Nam, đường số 9 là trục lộ chiến lược quan trọng được Cộng quân  xử dụn để xâm nhập người và vũ khí từ bên Lào vào các tỉnh cực Bắc Việt Nam Cộng Hoà.





  Về phương tiện hành chánh, Khe Sanh thuộc quận Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị với quận đường đặt gần làng Khe Sanh. Về mặt quân sự, Chi Khu Hướng Hoá do một Đại Uý chỉ huy, gồm chừng 1 Đại đội Địa Phương Quân và Nghĩa Quân cùng một số Cảnh Sát. Thông thường có thêm 1 Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 2, Sư Đoàn 1 Bộ Binh tăng phái hoạt động trong vùng cùng một Pháo Đội 105 ly với 2 khẩu  đặt tại sân bay Khe Sanh và 2 khẩu đặt tại Làng Vie. Sau này , vì tình hình an  ninh không được khả quan nên quận Hướng Hoá được di chuyển về vùng Chùa gần căn cứ Mai Lộc.







  Về dân cư, vì là vùng đồi núi hoang dã, khí hậu khắc nghiệt nên chỉ có chừng trên ngàn người  Việt cư ngụ, đa số là thân nhân và gia đình nhân viên, binh sĩ phục vụ tại  Chi Khu Hướng Hoá. Sắc tộc thiểu số Bru đông hơn, tổng cộng chừng 50.000 người sống rải rác trên các đồi, núi dọc biên giới Lào, nhưng quy tụ khá đông đảo tại hai làng Khe Sanh và làng Vie dọc đường số 9. Cũng như sắc dân thiểu số khác như: Rhadê, Hrêv...v... giống  dân Bru thuộc chủng loại Mã Lai-Polynesia nên đen đúa và khá lực lưỡng.





   Tuy đường số 9 chỉ là một trục giao thông nhỏ, coi như bị bỏ hoang từ lâu, nhưng khu vực này lại là một chiến trường quan trọng, nới xảy ra nhiều trận đánh lớn. Lý do vì con đường này dẫn sang Lào, giao tiếp với đường mòn Hồ Chí Minh, lại nằm trong vùng đồi núi hiểm trở nên rất thuận tiện cho quân Bắc Việt đưa người và vũ khí xâm nhập  các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Để ngăn chận đối phương, người Mỹ đã lập hành rào điện tử Mc Namara theo hình vòng cung dọc theo mặt hướng Bắc đường số 9, hướng Đông kéo dài từ Cửa Việt sát biển tới Khe Sanh gần biên giới Lào. Như vậy, Khe Sanh là điểm cực Tây của hàng rào Mc Namara nằm trong phần đất Việt Nam, giữ nhiệm vụ thu nhập tin tức tình báo  kỹ thuật và chiến lược của Quân Lực Mỹ nhắm vào các hoạt động di chuyển, xâm nhập của các đại đoàn chính quy CSBC cơ động các vùng Bắc Vĩ Tuyến 17 và phía Tây biên giới Việt Lào cũng như trên lãnh thổ Lào. Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ có 3 Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 26 đóng quân trong căn cứ Khe Sanh. Đó là Tiểu đoàn 1,2,3 và Tiểu đoàn 13 Cơ Giới cùng một đơn vị Tình Báo chiến lược.





  Ngày 19/1/1968. Một đơn vị Thuỷ Quân   Lục Chiến Mỹ tảo thanh vùng đồi 881 Bắc đã đụng độ dữ dội với Cộng quân. Chiều ngày hôm sau một Trung Uý CSBV Đại đội trưởng pháo đội 14 phòng không thuộc Trung đoàn 95 Sư đoàn 325 về đầu thú, và tiết lộ kế hoạch tấn công Khe Sanh.
   Ngày 20/1/1968 . Đúng như lời tiết lộ, nửa đêm hôn đó sau nửa giờ pháo kích, Cộng quân bắt đầu tấn công vào căn cứ. Lực lượng trú phòng phản công và đẩy lui cuộc tấn công này, 1 binh sĩ TQLC bị tử thương. Cộng quân bỏ lại 47 xác.




   Ngày 21/1/1968. Sáng ngày, căn cứ bị pháo dữ dội hằng ngàn quả đạn, kho bom dự trử bị nổ tung, nhiều phi cơ trực thăng bị hư hại, đài kiểm soát bất khiển dụng, nhiều dụng cụ quan trắc khí tượng bị hư hỏng. Tình hình trở nên vô cùng nghiêm trọng.
  Ngày 22/1/1968. Tiểu đoàn 1/9 TQLC Mỹ được trực thăng vận đến tăng viện.
  Ngày 25/1/1968. Thiếu Tướng J.J. Tolson, Tư Lệnh Sư đoàn 1 KBKV, chuẩn bị tổ chức một cuộc hành quân để giải toả căn cứ Khe Sanh.
  Ngày 27/1/1968 Tiểu đoàn 37 Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà được không vận đến để tăng viện thành 5 Tiểu đoàn họp thành lực lượng phòng thủ căn cứ. Tiểu Đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Biệt Động Quân là Đại Uý Hoàng Phổ.



Tướng Wesmoreland va Đại Uý Hoàng Phổ
(Tiểu Đoàn trưởng Tiểu Đoàn 3 Biệt Động Quân)


  Trong khi đó tin tức ghi nhận  Sư đoàn 325 CSBV đang hiện diện quanh quẩn tại phía Bắc đồi 881 Bắc. Sư Đoàn 304 từ Lào cũng  đã xâm nhập vào VN  và hiện đang có mặt tại phía Tây Nam Khe Sanh. Một Trung đoàn  của SĐ 324 CSBV cũng được phát giác tại khu phi quân sự cách Khe Sanh chừng 24km. SĐ320CSBV đang ở phía Bắc căn cứ Rockpile, cũng có thể tiếp ứng cho mặt trận Khe Sanh. Thêm vào đó hai Trung đoàn 68 và 164 cũng được tăng cường cho SĐ325 và SĐ 304.
  Ngày 5/2/1968. Từ ngày này(mồng 7 Tết) Cộng quân bắt đầu liên tục pháo kích, tấn công bằng Bộ Binh và bao quanh vòng đai căn cứ chiến lược Khe Sanh. Lực lượng trú phòng đã phản công chốmg trả quyết liệt gây nhiều tổn thất cho địch quân.
  Ngày 9/2/1968 Một Tiểu đoàn CSBV thuộc Trung đoàn 101D của Sư đoàn 325 tấn công đồi 64 do Đại độiA/1/9 TQLC trấn giữ. Các vị trí trên đồi bị Bắc quân tràn ngập. Không chút chậm trễ, các khẩu đại bác quanh vùng  đều nhắm hướng đồi 64 và tác xạ. Một Lực lượng TQLC khác được gửi tới tiếp viện. Trong 3 tiếng đồng hồ máu lửa này, có 150 bộ đội BV chết và 26 binh sĩ Hoa Kỳ tử thương.




Trên đồi sáu bốn khói mờ
Thi hài loang máu mầu cờ tang thương 
Xác người tan nát thịt xương
Lầu chuông sụp đổ giáo đường tan hoang

  Sau trận đánh đồi 64 này, quân BV tạm ngưng các hoạt động để bổ sung quân số. Chiến trường lắng dịu trong 2 tuần.
  Ngày 21/2/1968, Khoảng 1 Đại đội Cộng quân tấn công vào phòng tuyến của Tiểu Đoàn 337 Biệt Động Quân. Nhưng các binh sĩ Mũ nâu VNCH đã vững vàng cố thủ. Đợt tấn công của đối phương đã bị Biệt Động Quân  bẻ gảy.
    Ngày 23/2/1968, Hai ngày sau, quân CSBV tập trung pháo binh để phục hận. Một nghìn ba trăm (1.300) quả đạn đủ loại đã được bắn vào Khe Sanh. Trận địa pháo 8 tiếng đồng hồ này đã làm nổ tung một kho tồn trữ đạn trong căn cứ, gây thiệt mạng cho 10 quân nhân Hoa Kỳ và 51 người khác bị thương.

Khe Sanh tắm máu bao lần
Nghìn... nghìn quả pháo dân... quân điêu tàn 
Nằm nghe tằm đạn bay ngang
Mái chùa  đổ nát xóm làng xác xơ...




  
  Ngày 29/2/1968, vào lúc 9:30 tối, Một Tiểu đoàn Cộng quân(thuộc Sư đoàn 304 CSBV), đánh thẳng vào mặt Đông Khe Sanh.Đây là khu vực trách nhiệm của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân VNCH. Sau màn pháo kích dọn đường, và 3 lần biển người xung phong, CSBV cũng không phá được vòng dây phòng tuyến thép. Đêm hôm đó, các binh sĩ Biệt Động Quân bình tỉn hchie61n đấu. Họ đợi đối phương xung phong đến thật gần rồi mới khai hoả Tiểu đoàn 37 Biệt Động Quân đã chống trã mãnh liệt. Kinh nghiệm chiến đấu của họ là một trong các yếu tố quan trọng giúp đẩy lui 3 lần xung phong của Bắc quân. Ngày hôm sau, kiểm điểm tình hình chiến trận họ đếm được 70 xác địch quân trên trận địa.





  Sau nhiều ngày  thảo luận tình hình chiến sự, sau cùng Tướng  Wesmoreland chấp thuận kế hoạch  hành quân giải vây Khe Sanh. Hành quân mang tên Pegasus về phía Mỹ và về phía VNCH nằm trong kế hoạch Hành Quân Lam Sơn 207 A. Cả hai cuộc hành quâb đặt dưới quyền của Thiếu Tướng J.J.Tolson. Lực lượng tham dự hành quân gồm có:
   
1/Lữ đoàn 1 KBKV với Lữ đoàn trưởng là Đại Tá J.F.Stannard.
2/ Lữ đoàn 2 KBKV với Lữ đoàn trưởng là Đại Tá J.C. Mc Donough.
 3/ Lữ đoàn 3 KBKV với Lữ đoàn trưởng là Đại Tá H.S. Campbell.
4/ Trung đoàn 26 TQLC với Trung đoàn trưởng là Đại Tá D.E.Lownds.
5/Trung đoàn 1 TQLC.



Tướng Nguyễn Khoa Nam


6/Lữ đoàn 3 Nhảy Dù-VNCH gồm 3 Tiểu đoàn dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Nguyễn Khoa Nam.
Tiểu đoàn 3 N Dù-Tiểu đoàn trưởng - Thiếu Tá Trần Quốc Lịch.
Tiểu đoàn 6ND-Tiểu đoàn trưởng - Thiếu Tá Trương Vĩnh Phước.
Tiểu đoàn 8 ND-Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Thọ.



Tướng Nguyễn Khoa Nam


  Bộ Tư Lệnh hành quân đóng tại căn cứ Stud gần Cà Lu. Quân số tham chiến lên đến 20,000 người với sự yểm trợ bởi 300 trực thăng, 148 khẩu pháo binh.
  Ngày 25/3/1968 Thiết đoàn 1/9 KBKV dưới quyền chỉ huy của Trung Tá R.W.Diller sử dụng trực thăng trinh sát dọc theo quốc lộ 9 hướng về Khe Sanh thu nhập tin tức về địch quân, xác định các vị trí bải đáp trực thăng đồng thời tiêu diệt các ổ phòng không của địch.
 Ngày 30/3/1968, SĐ3TQLC Mỹ phối hợp với SĐ 1BB-VNCH hành quân nghi binh tại vùng Côn Thiện và Gio Linh. Lực lượng của Mỹ hợp thành lực lượng Đặc Nhiệm Kilo trong khi cán hqua6n SĐ1BB VNCH nằm trong kế hoạch Lam Sơn 203. Cuộc hành quân chấm dứt lúc trưa ngày 1/5/1968, chỉ có những cuộc chạm súng lẻ tẻ không đáng kể.
  Ngày 1/4/1968 Cuộc hành quân chính thức khai diển. Hai Tiểu đoàn 2/1 và 1/3 TQLC Mỹ từ Cà Lu tiến dọc hai bên đường Quốc lộ 9 hướng về Khe Sanh để bảo vệ cho TĐ 11 Công Binh tu sửa lại con đường này. Trong khi dó 3 Tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 3KBKV được trực thăng vận đổ xuống các bải đáp phía trước cách Khe Sanh khoảng 5 dậm.




  Ngày 2/4/1968. Liên tiếp 2 ngày, hai Lữ đoàn 2 và 1 KBKV được thả xuống phía Nam căn cứ Khe Sanh và đường số 9 trong khu vực đồn điền của người Pháp khi xưa.
  Ngày 4/4/1968 Các Tiểu đoàn 3 , 6 và 8 Nhảy Dù thuộc Lữ đoàn 3 Nhảy Dù VNCH được thả xuống khu vực phía Tây và Tây Nam căn cứ Khe Sanh (bên ngoài và sau vị trí của địch quân đang bao vây căn cứ) để chận đường lui của địch.
   Sau khi được thả xuống bải đáp, TĐ1/5KBKV hướng về mục tiêu đồn Pháp cũ, đã đụng độ  với một Tiểu đoàn Cộng quân đang cố thủ tại đây. TĐ1/5KBKV bị thiệt hại nặng. Trung Tá Runkle Tiểu Đoàn trưởng bị tử thương. TĐ2/5KBKV được lệng vào thay thế nhưng Cộng quân đã rút lui.
  Trong khi đó, các đơn vị phòng thủ bên trong căn cứ Khe Sanh, TĐ1/9TQLC cũng bắt đầu tấn công ra về phía Nam để chiếm lại ngọn đồi 471 theo chiến thuật gộng kềm, ép đơn vị Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 66 địch quân vào giữa.  Cộng quân cố thoát ra khỏi vòng vây nhưng với hoả lực hùng hậu của các đơn vị tham chiến, Cộng quân phải rút chạy bỏ lại chiến trường 148 xác.
  Ngày 6/4/1968. Các đơn vị KBKV đã bắt tay được với TQLC bên trong căn cứ tại đồi 471. Sau đó TĐ 1/9 TQLC bắt đầu càn quét khu vực chung quanh căn cứ khởi đi từ ngọn đồi 552 rồi đến đồi 681, không gặp một kháng cự nào của địch.
  Cùng lúc đó về mặt Bắc, TĐ2/26 TQLC cũng tiến ra ngọn đồi 558. Mủi tiến quân này gặp sự chống trả mãnh liệt của Cộng quân; trận chiến phải mất hết 2 ngày mới bứng hết các ổ kháng cự.
  Ngày 7/4/1968. Trong khi tiến về Khe Sanh dọc theo quốc lộ 9, TĐ2/7KBKV đã chạm địch mạnh tại   địa điểm chỉ cách Khe Sanh chừng 2 dậm. Để 3 Đại đội cầm chân địch quân ở mặt trận chính. Đại đội thứ tư lòn ra sau bọc hậu, mới đánh bật được Cộng quân ra khỏi các cộng sự phòng thủ.




  Cũng trong ngày này các Tiểu đoàn Nhảy Dù VNCH đã chạm địch, sau khi đáp xuống vị trí đã địn Lữ Đoàn trưởng ra lệnh các đơn vị trực thuộc mở rộng đội hình hàng ngang tiến vào phía căn cứ, xiết chặc vòng vây. Khi biết có lính Dù VN tăng cường, binh sĩ TQLC bên ytrong căn cứ lên tinh thần, khi lực lượng dù chạm địch, bên trong căn cứ cũng bắn ra dữ dội. Do đó, địch quân bị kẹt giữa hai lằn đạn, vì qua gần trong khoảng cách không quá 200m, biết không thể tiến cũng không thể thoát được, địch quân gọi pháo tác xạ vào ngay đội hình của chúng nêm bị chết rất nhiều, một số bị bắt sống, bên ta cũng bị tổn thương cao. Đại đội 33ND tổn thất nặng nhất Đại Uý Nguyễn Đức Cần,ĐĐT cùng 2 Chuẩn Uý Trung đội trưởng bị tử thương. Một Thiếu Uý Trung đội trưởng bị thương, chỉ còn một Trung đội trưởng là Thiếu Uý Trương Văn Dũng không bị thương tích.





  Ngày 8/4/1968. Căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải toả sau 77 ngày bị Cộng quân vây hảm, các đơn vị tham chiến tung quân càng quét các khu vực xung quanh, chỉ một vài cuộc đụng độ lẻ tẻ quanh ngọn đồi 881 phía Bắc.
  Tổng kết thiệt hại về phía đồng minh, 41 Bộ Binh Mỹ, 51TQLC Mỹ và 34 quân nhân VNCH bị tử trận, đổi lại 1.304 quân CSBV bỏ xác tại trận và 21 tù binh.
  Cuộc hành quân Lam Sơn 207 A chính thức kết thúc vào ngày 15/4/1968. Lữ đoàn 3 Nhảy Dù được đưa về Huế để tham dự một cuộc hành quân mới chiếm  lại thung lủng AShau.





  Những cái Tết xum hợp không còn nữa, mỗi cái Tết đi qua gia đình tôi vắng dần bóng dáng người đàn ông. Trên bàn thờ năm nay lại thêm bức ảnh của Mười Thanh, nhìn má đang buồn khổ vì mất 2 đứa con liên tiếp, nên tôi chẳng nở nhẫn tâm làm má đau thêm, nên dấu chuyện mình vừa tìm được cái hôn thú.
  Má vẫn khòm lưng ngồi lò làm bánh tráng, chị Sáu vẫn về phụ như mọi năm, chị đang mang bầu đứa thứ 3 cái bụng cũng khá  lớn. Ngồi chùi bộ lư mà tôi bùi ngùi nhớ đến em Thanh, năm ngoái cũng khoảng này, nó còn ngồi chùi lư, tôi thì giặt mùn mền, hai chị em tạt nước ướt loi ngoi, cười đùa rộn rã. Năm nay tôi thay nó vừa chùi lư hương, vừa giặt, nhớ đến cái chết tức tưởi của em mà nước mắt bỗng mặn trên môi.
  Không khí ngày Tết không khoả lấp được màu tang tóc, nhìn chỗ ngồi thiếu vắng em Thanh , không khí nặng nề im lặng, mọi người buồn bã nhìn nhau, thức ăn ê hề mà chỉ nghe tiếng đũa uể oải lười biếng khua vào chén, mấy đứa  nhỏ nín khe không dám thở mạnh.
  Căn nhà thờ khói hương mờ mờ, ngọn đèn dầu chập chờn. Hình  anh Tám Búp và Mười Thanh để song song. Nhìn ảnh tôi vẫn chưa tin anh với em đã qua đời. Đêm giao thừa thật buồn, những tiếng cười rộn rã năm nào thay bằng giọt nước mắt đêm Xuân. Trong khung cảnh thiêng liêng của đêm gia thừa, cái không khí bất an bao trùm cả thôn xóm.
   Tại Bà Rịa đêm mùng 1 Tết, tiếng súng bắt đầu tạch đùng lai rai, mọi người co ro trong hầm trú ẩn, tiếng trọng pháo từ bên tỉnh bắn sang cùng tiếng nổ long trời. Giữa đêm đen,tiếng gọi thống thiết vọng lại từ phía ruộng sau:
   "Má ơi!....  Chết con rồi... má ơi...
  
Anh gọi mẹ lúc lìa đời
Tiếng kêu thống thiết như lời quê hương
Mẹ ơi xác gửi sa trường
Chết trong tức tưởi tang thương mấy bờ!

   Tiếng gọi thiêng liêng giữa đêm Xuân, tiếng kêu cứu  cuối cùng của kẻ bị thương, nỗi cô đơn của một kiếp người lúc sắp lìa đời nhe thống thiết bi thương, tiếng rên rĩ kéo dài từng chập đứt khoảng rồi lịm tắt. Ngoài trời tối đen như mực, thỉnh thoảng tia sáng hoả châu chợt bừng lên rồi tắt ngắm. Tiếng súng lại nổ dòn, tiếng đạn pháo nổ thật gần, mọi người nín thở hãi hùng.
   Chợt nghĩ đến anh Tám Búp, người anh thân yêu của tôi, khi trúng đạn pháo anh chết liền hay cũng quằn quại  gọi má như người thanh niến xấu số kia?  Nghĩ thương anh, thương người thanh niên vừa chết kia, rồi cảm thương cho tất cả những chàng trai trẻ , chết tức tưởi giữa chiến trường lửa đạn.
  Trời sáng dần... qua một đêm kinh hoàng chờ sáng, từ dưới hầm mọi người chun lên, vài cánh dù hoả châu rớt ngoài đám ruộng trước nhà, anh Tư Kia chạy ra lượm, bỗng  anh dội lại hốt hoảng:
   -Cô Sáu... kêu  mấy đứa xuống hầm lẹ lên!
  Người cuối cùng vừa xuống hầm, thì từng loạt tiếng súng AK47 nổ dòn từ phía nhà má sang  nhà thiếm Năm Lăng. Tiếng máy bay vần vũ trên mái nhà, ầm... ầm... Tiếng bom nổ long trời lỡ đất, tiếp theo là tiếng chén, tách bể loảng xoảng... khiến mấy  chân bàn thờ bị miểng bom đứt tiện, tiếp theo là mấy thùng phi  lủng  như cái rổ tiếng nước chảy ào ào...
    Từ dưới hầm trú ẩn nhìn qua khẻ hở mịt mù chẳng thấy  vườn cây. Từ nhà thiếm Năm Lăng tiếng  súng M16 trả đủa bắn sang xen lẫn với khói màu, sau hè có tiếng cán binh Việt Cộng văng tục khi bắn hụt một người lính từ xạ trường về.
   Mọi người lo sợ nhìn nhau, má van vái không ngớt, lo cho mấy con bò ngoài chuồng. Một tốp VC vào nhà tra xét, khi ngang qua bàn thờ anh Tám Búp nhẹ tay lấy cái huy chương anh dũng bội tinh, còn bắt má phải đi gọi mấy anh tôi về, họ nói rặt giọng Bắc quá nặng nên tôi phải làm thông dịch. Một tốp chạy vào nhà tắm núp  nhưng lại dội ra bịt mũi la lên "giời ơi thối quá... thối quá". 
  Chiếc đầm già đã trông thấy bọn Việt Cộng từ nhà tắm chạy ra nên bay vòng lại, cả nhà vừa xuống hầm thì ầm...ầm... Việt Cộng chạy toán loạn, tôi nghe tiếng thét bị trúng thương, máy bay đánh   rát quá nên chúng rút dần xuống xóm dưới. Cả nhà ai cũng bảo, nhờ chị Sáu có bầu nhịn hỗng được nên đi đại bỏ trong nhà tắm, nhờ đó mà cả nhà thoát nạn.
  Cứ vài  phút tôi lại bò lên  canh chừng xem nhà có bị cháy không, nhìn về phía nhà chú Năm Văn ngọn lửa bừng lên cao, mà tiếng súng,tiếng bom nổ không ngừng. Kéo dài đến trưa , phải ấy bánh tráng  nhúng cho tụi nhỏ ăn đỡ đói vì không dám bò lên nấu cơm.
  Sau khi im tiếng súng, thì xác chết rải rác nằm dài trên bờ , dưới ruộng bùn lầy, sau buội tre tàu sau nhà. Xác nằm dưới hầm chông ấp chiến lược... Xóm dưới vài nhà bị hư hại, bị cháy. Bà Hoả đã nuốt trọn ngôi nhà với 2 đứa con của chú Mười Hoàng. Dù tương đối nhẹ hơn các tỉnh khác, nhưng đất mẹ đã thắm từng dòng máu từ mạch tim bé nhỏ. Công trình lao nhọc của người dân, bỗng chốc tiêu tan ra mây khói. Sau Tết nền nhà cũ chú Mười Hoàng mọc lên 2 nấm mộ.
   Vách tường nhà mới của má bị miểng bom lâm nhâm như rổ hoa mè, còn đôi bò may mắn không bị thương tích. Chúng tôi đổ tội cho thằng Sao, mới mùng Một chưa cúng tất đã mở nấp giếng, đó là điều cấm kỵ xưa nay chưa có đứa nào dám làm. Má giận lắm, nhưng vì Tết nên chỉ trừng mắt chớ không rầy. Năm đó cúng tất trể , cúng xong mới rầy;
  -Cái thằng ba trợn! Khi khổng khi không ba chớp ba sáng đầu năm đi mở giếng mới có chuyện lộn xộn! 
  Tôi phụ hoạ:
  -Nhờ Tết chớ ngày thường là ăn cán chỗi rồi! Cũng tại mở giếng ẩu nên thần giếng mới cho súng nổ ngay nhà!
  Nó chau quảu nhìn tôi hỏi tới:
  -Thiệt hả chị? Hay chị lại giả bộ nữa?
  Nhìn nó quá thật thà thành ra khờ khạo mà thương, dù hay bị trong nhà trêu chọc, nhưng được cái là không biết giận. Má sai đi cắt lá chuối hột để gói bánh cúng tất, tôi lại bịa:
  -Cây chuối hột có ma đó nghen! Tối qua nó  trổ buồng chị nghe nó rên! Em phải xá nó 3 xá để xin cắt lá! Hông thôi bị quở thế nào cũng nóng lạnh!
  Mấy chị em tôi rình theo, ai dè nó làm thật, má biết được rầy:
  -Mập béo gì mà tụi bây cứ chọc nó! Cái thằng khờ tận mạng! Nói ngựa đua dưới nước, tàu chạy trên bờ chắc nó  cũng tin tuốt luốt!
  Má sai nó ra hái đu đủ, nháng đu đủ bở gẩy nhánh nó rớt xuống như trái mít rụng. Nó đứng dậy đi cà nhắc, má ré lên:
  -Cái thằng ngu tận mạng! Tao biểu  mầy thọc chớ đâu biểu mày leo! Nhà đâu có nuôi trâu mà mầy muốn thành Tôn Tẩn!
  



Tổng công kích đợt 2









   Sau khi thất bại qua đợt tấn công vào đầu dịp Tết, Việt Cộng vẫn không từ bỏ kế hoạch"tổng công kích, tổng nổi dậy". VC nghĩ rằng một đợt tấn công lần thứ hai sẽ có thể lôi kéo dân chúng Miền Nam nổi dậy. Họ đã đánh  giá sai dân tình miền Nam. Họ vẫn không hiểu được rằng dân miền Nam được sống trong một xã hội tuy chưa hoàn hảo nhưng tương đối tự do và chưa bao giờ thực sự tin theo VC.
  Đợt tấn công Mậu Thân 2, khai diễn vào  2 giờ sáng ngày 5 tháng 5 năm 1968. Một Tiểu đội đặc công VC đã xâm nhập gần các đường Cô Giang-Cô Bắc. Chúng xuất hiện rải truyền đơn và tuyên truyền sách động đồng bào tại các khu chợ Cầu Muối, Cầu Kho, khu Đề Thám-Bùi Viện.




   VC dùng đòn pháo kích  vào phi trường Tân Sơn Nhất  và quanh thủ đô Sàigòn  bằng hoả tiển 122 ly và súng cối 82. Đơn vị chủ lực theo vùng ven đô Thị Nghè, Bình Tiên và Phạm Thế Hiển. Trong đợt này VC tập trung nỗ lực vào những khu đông dân cư, lựa chọn những địa thế khó xoay trở cho ta. chúng đồng loạt xâm nhập và bắn phá đô thị, những khu nghèo đông dân cư, nhà cửa chen chúc và đường hẻm chằng chịt khiến cho việc lưu thông hằng ngày và công tác cứu hoả rất giới hạn và khó khăn.



  Tiếng súng VC cũng đồng loạt tấn công quận Tư vùng Khánh Hội, Quận 5 khu Trần Nhân Tôn, quận 3  khu chùa Bà Lớn gần đường Nguyễn Thiện Thuật. Quận Nhất khu  Phan Đình Phùng-Nguyễn Bỉnh Khiêm gần đài Phát thanh, Gò Vấp kho quân cụ, khu Phú Thọ Hoà vùng Gia Định. Vài nơi tại vùng Khánh Hội và Chợ Lớn bốc cháy. 




   Ngày thứ hai, 6/5/1968, lúc 8:30 sáng , ngay căn cứ Không Quân Phi Long, Đại Tá Lưu Kim Cương Tư Lệnh Không đoàn 33 kiêm Chỉ Huy trưởng yếu khu Tân Sơn Nhất bị tử thương bởi 1 trái B-40.
  Ngày 6/5/1968 VC lại mở thêm mặt trận ngã tư Bảy Hiền, một đơn vị VC xâm nhập từ hương lộ 14 qua đường Hồ Tấn Đức, Lê Văn Duyệt ngã tư Bảy Hiền vào nghĩa trang quân đội Pháp. Vào lúc 8:30 sáng, các khu trực cơ A-1Skyraider được gửi đến thi nhau dội bom vào khu nghĩa địa.
   Kết quả từ 4 giờ sáng ngày 5/ 5/1968 đến 18 giờ chiều, trong 8 quận đô thành lực lượng chính phủ đã hạ được 32 VC, bắt sống 25 và tịch thu 70 vũ khí đủ loại. Về phía Cảnh Sát Dã Chiến có 6 người tử thương.




   Thời gian này ,TĐ7ND đang bổ sung quân số, và huấn luyện  tại chỗ trong hậu cứ, gần núi Bửu Sơn-Biên Hoà. Vào khoảng gần trưa, Tiểu Đón 7 Nhảy Dù được điều động bằng xe, từ Biên Hoà về tiếp cứu Biệt Khu thủ đô.






  Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù khởi sự xuất phát từ ngã tư Bảy Hiền, chia làm 2 cánh, từ cuối đường Lê Văn Duyệt tấn côn gva2o khu nghĩa địa. Cánh trái do Trung Tá Lê Văn Ngọc Tiểu Đoàn trưởng chỉ huy Đại đội, tiến chiếm khu trường trung học Đắc Lộ, và khu "nhà thợ dệt" phía sau trường học. Cánh phải do Thiếu Tá Lê Minh Ngọc Tiểu Đoàn phó, điều động 2 Đại đội 71 và 73, tiến theo đường Nguyễn Văn Thoại, về hướng Lăng Cha Cả. Nửa đường, Đại đội 73 do Trung Uý Nguyễn Viết Thanh chỉ huy bắt đầu chạm địch. Cộng quân từ các công sự kiên cố bằng bê tông cốt sắt trong khu nghĩa trang của Pháp, khai hoả dữ dội vào đoàn quân mũ đỏ.






  Các chiến sĩ Đại đội 73 Nhảy Dù hiên ngang dàn đội hình tác chiến, dùng lựu đạn khói mầu làm màn che, rồi xung phong đánh  cận chiến chớp nhoáng với tiểu liên và lựu đạn, nhanh chóng chế ngự chiến trường, chiếm lại khu nghĩa trang, dưới sự chứng kiến và khâm phục của dân chúng và các ký giả VN và ngoại quốc.





  Trận xung phong này kết thúc với 60 tên VC bị hạ, 11 bị bắt sống, khoảng 100 nhà cửa của dân chúng ở ngã tư Bảy Hiền phía bên mặt đường Lê Văn Duyệt bị thiêu huỷ. Cây xăng Shell cũng bị cháy. Lực lượng Nhảy Dù tịch thu được 30 vũ khí đủ loại trong đó có 1 súng phòng không và 1 khẩu đại bác không giật 75 ly , rất may VC chưa dùng tới. Một điều may khác là VC tới sát trường Quốc Gia Nghĩa Tử  mà chưa đột nhập vào bên trong nơi có nhiều lưu trú học sinh. Nếu VC chiếm được nơi này làm nơi cố thủ sẽ gây nhiều khó khăn cho quân đội chánh phủ.






   Theo khẩu cung từ   tù binh VC, đơn vị tấn công tại ngã tư Bảy Hiền thuộc một thành phần của Trung Đoàn 272  thuộc Công Trường 9 từ Tây Ninh kéo qua ngã vườn cao su vào khu  hãng dệt Vinatexco (bị thiêu huỷ kỳ tấn công tết Mậu Thân) và khu nghĩa địa của Pháp với mục đích tấn công căn cứ Tân Sơn Nhất và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù tại trại Hoàng Hoa Thám. Nhưng VC tới trễ vào lúc trời sáng nên bị các đơn vị chánh phủ chận đánh. Toán VC xâm nhập vào nghĩa địa Pháp coi như bị hoàn toàn tiêu diệt. Còn những phần tử khác tẩu thoát về ngã Phú Thọ Hoà.






  Cánh quân của TĐ7ND tiếp tục lục soát giải toả cho đến cổng Phi Long của Bộ Tư Lệnh Không Quân. Mãi sáng ngày 7/5/1968 các đơn vị VNCH mới thanh toán hết những cán binh VC chạy toán loạn và ẩn núp trong trại chăn nuôi của Bộ Canh Nông. Vì vậy mà lần đầu tiên dân chúng trong khu ông Tạ (đa số là dân di cư Công Giáo Bắc Việt) phải chạy loạn. Con đường Nguyễn Văn Thoại tới ngày 8/5/1968 mới mở lại sự lưu thông điều hoà.







    Sau đó TĐ7ND được lệnh đổi hướng, di chuyển ngược lại trên đường Nguyễn Văn Thoại, hướng về Chợ Lớn giải toả khu "nhà thờ hầm", xong tiếp tục tái chiếm vùng nghĩa trang Nhị Tỳ Quảng Đông. Nơi đây, quân Nhảy Dù đã gặp  sự kháng cự rất mạnh. Cộng quân từ bên trong nghĩa trang, ẩn  nấp trong những công trình xây   cất kiên cố, kẻm gai chằng chịt, bắn ra xối xả. Đến tối, TĐ7ND tung khinh binh nương theo bóng đêm, len lỏi xâm nhập được vào bên trong nghĩa trang, rồi triển khai đội hình, thanh toán từng chốt địch, đến khuya mới làm chủ được tình hình nơi đây, rồi sáng hôm sau bàn giao lại cho Cảnh Sát Dã Chiến.



  Ngày 8/5/1968, TĐ7ND được lện hdi chuyển bằng xe, trở ngược lại ngã tư Bảy Hiền, trực chỉ lên hướng Quang Trung, đến hãng bột ngọt Vị Hương Tố, để tiếp tay với TĐ1ND giải toả khu 18 Thôn Vườn Trầu, ra đến xả Nhị Bình ngày 9/5/1968. Một Đại đội Cộng quân bị bao vây tại đây, vì chúng không thể vượt sông Sàigòn được. TĐ7ND và TĐ1ND đã phối hợp mở cuộc hành quân lục soát, trong 2 ngày tiêu diệt đại đội này, bắt được  nhiều tù binh và vũ khí cùng tài liệu gia về cho BKTĐ. TĐ1ND cũng đã chạm địch mạnh tại vùng Nhị Bình. Đại Uý Mai Ngọc Liên,TĐP/TĐ1ND bị tử thương tại đây.





  Cũng trong ngày 8/5/1968, một mặt trận mới nữa được mở ra tại mật khu An Phú Đông của VC. Ngay khi Cộng quân vừa phát động tấn công đợt 2, TĐ3ND đã đến trấn đóng và lục soát mật  khu này như khu chợ Cầu, vùng tân Thới Hiệp Hốc Môn.
   TĐ3ND từ Gò Vấp xâm nhập  vào khu An Phú Đông. Lợi dụng khu ruộng mía   rậm  rạp, địch quân đã tổ chức những hệ thống hầm hố tác chiến rất vững vàng.TĐ3ND tấn công trực diện vào phòng  tuyến địch, VC chống trả và giao tranh ác liệt, nhưng VC không thể cầm chân được quân Nhảy Dù. Hấu hết các mục tiệu "ruộng  mía" đều bị quét sạch. Một số lớn bị hạ sát, một số ra đầu hàng. Chiến sĩ Dù đã tịch thu một số lớn vũ khí, đạn dược và tài liệu của quân chín hquy CSBV. Mặt trận này đến ngày 11/5 mới chầm dứt hẳn. TĐ3ND rút về án ngữ tại hảng bột ngọt ở Tân Thới Hiệp Hốc Môn.





  Ngày 25/5/1968, VC lại tấn công thủ đô Sàigòn. Lần này họ xâm nhập qua Đồng Ông Cộ vào khu vực Ngã Năm Bình Hoà và những khu kế cận. Họ chiếm và cố thủ trong các nhà của thường dân vô tội để chống lại cuộc phản công của quân đội VNCH. Tại Chợ Lớn, VC cũng xâm nhập được vào nhiều khu phố thuộc quận 6. Họ tổ chức chiến đấu ngay trong các khu vực đông dân cư, chiếm mấy nhà kiên cố làm phá đài. Các trận chiến xảy ra tại những khu vực này thật vô cùng khốc liệt.






  Trung đoàn Đồng Nai lặng lẽ xâm nhập qua các kẻ hở của vòng đai phòng thủ vào từ ngày 23/5/1968, nhưng thực sự t71i ngày 25/5/1968 họ mới phát động trận đánh. Đúng ra, VC chưa muốn đánh sớm nhưng vì sự xâm nhập của họ đã bị lộ. Khởi sự, VC đã từ vùng An Phú Đông xâm nhập vào thành phố Gia Định để đưa bộ chỉ huy nhẹ của Trung đoàn Đồng Nai với Tiểu đoàn K3 Phú Lợi vào trước. Toán quân này đã len lõi vào tới khu chùa Lập Thành thuộc ấp 7. Họ đợi có nhiều cán binh VC khác xâm nhập thêm để rồi từ vùng này băng qua cầu tiến tới vùng Bà Chiểu, vượt đường Bùi Hữu Nghĩa qua ấp 4 xã Bình Hoà, vào đường Trần Nhật Duật để làm đà vọt vào Quận 1 Sàigòn.





  Nhưng khi họ đến chùa Lập Thành thì bị quân đội VNCH phát giác. Liền ngay đó, các lực lượng chánh phủ được điều động đến ngăn chận và mở cuộc hành quân tảo thanh cho nên chiến sự đã chỉ hạn chế trong khu ấp 7, khu Cầu Sơn, cầu Băng Ky, Cây Quéo và Cây Thị.
   Ngày 31/5/1968 Trung đoàn Quyết Thắng với Tiểu đoàn 1 và 2 của Gò Môn(Gò Vấp và Hóc Môn) mãi tới đêm mới từ khu Rạch Ông vượt qua đường rầy xe lửa vào vùng Cây Thị để tăng viện cho các hoạt động trong nội thành. Lực lượng VC khi vào thì chạm trán với TQLC và xảy ra các cuộc đụng độ ở cầu Băng Ky. Mặt trận cầu vì vậy sôi động nhưng chỉ trong 2 ngày lực lượng Thuỷ Quân Lục Chiến đã dẹp tan hết các toán VC ở đây vì VC không có bao nhiêu. Đó cũng là vì lực lượng chánh của VC đã dồn sâu vào bên trong thành phố, còn tại nơi đây họ chỉ có một số ít quân để bảo vệ đường xâm nhập cho các lực lượng chi viện của họ vào.






  Trong khi đó, lực lượng Nhảy Dù đã gặp một sự chống trả mảnh liệt của VC ở khu chùa Lập Thành. VC đã tổ chức hầm hố quyết tử thủ khu vực này. Mãi sau 13 ngày giao tranh ác liệt, tức là vào ngày 5/6/1968 thì quân đội chánh phủ mới kiểm soát được khu vực chùa Lập Thành.
  Sáng ngày 2/6 có 3 phi tuần dội bom xuống khu vực quanh chùa Lập Thành. Bom hạng nặng làm rung chuyển cả khi vực. Bom vừa trút xong thỉ Nhảy Dủ mở đợt xung phong. Nhưng vẫn bị hoả lực rất mạnh của  VC cầm chân. Đại đội 51 Dù do Đại Uý Quân điều động xung phong 3 lần đều bị hoả lực dữ dội của VC ngăn chận.




  Ngày 3/6/1968 Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù ở vùng chùa Lập Thành vẫn còn ngun ngút khói lửa. Mở đầu trận này khi hai cánh quân của Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù tiến vào trận địa, các binh sĩ Nhảy Dù đã không dùng chiến thuật đi mà là nhảy và chui, vì di chuyển trên đường sẽ bị VC bắn, nên những người lính Nhảy Dù phải leo từ nhà nọ sang nhà kia. Lặng lẽ đi khi tới khu vực quanh chùa  thì họ mới chạm VC. Ở vùng này có nhiều nhà xây và nhiều cây nên VC rất có lợi thế. Lính Nhảy Dù đã cố tránh thiệt hại cho dân chúng nên không xin pháo binh và phi cơ yểm trợ.





   Vào ban đêm, VC tăng viện thêm quân và phân tán thành nhiều toán nhỏ. Họ định lợi dụng đêm tối mở lối qua cầu Mới để vào 
Sàigòn  nhưng gần chục cán binh VC đã bị hạ khi định lọt qua.
  Trước quân số tăng thêm và địa thế ấy, sáng ngày  4/6/1968, Nhảy Dù phải dùng pháo binh và phi cô yểm trợ. Lúc 11 giờ, khi máy bay Skyraider tới oanh tạc, VC đã bắn trả dữ dội. Sau đó, hai Đại đội Nhảy Dù mở cuộc tấn công xuyên vào phòng tuyến VC, nhưng họ chỉ tiến thêm được chừng 50 mét. Cũng như đêm trước VC vẫn tìm cách rút lui nhưng không thoát được, có 3 VC bị bắn hạ.




 Trong kỳ Mậu Thân 1968, một trong những tàn phá nhiều nhất là Chợ Lớn, một khu vực sinh sống rất đông đảo dân Hoa Kiều tại Việt Nam. Trong cuộc tấn công này , các toán quân VC đã xâm nhập khu Chợ Lớn để giết dân, phóng hoả, và tạo nên một sự náo loạn kinh khiếp trong đô thành. Hình chụp một góc phố với nhiều cán binh VC nằm chết la liệt bên lề đường. Ở đằng sau, một toán lính Nhảy Dù đang tập trung, tái phối trí rồi sau đó chuẩn bị mở một cuộc hành quân truy kích khác để đánh đuổi địch quân ra khỏi đô thành (tài liệu:NAM, The Vietnam Experience).
  Đại Uý Trần Văn Sơn, sĩ quan tham mưu TĐ5ND cho biết, là VC vẫn tìm lối lần về phía Nam tức là mưu toan thọc sâu vào Gia Định.  Một tù binh VC khai rằng cấp chỉ huy cho biết là Sàigòn đã rơi vào tay VC. Họ có nhiệm vụ vào tiếp quân. Giải thích về việc bị Nhảy Dù chắn đường thì cấp chỉ huy của họ cho biết chỉ là một số quân nguỵ còn ngoan cố. Chính tù binh này cho biết đơn vị tham chiến là Tiểu đoàn K3 thuộc Trung đoàn Đồng Nai và hiện có  hai Tiểu đoàn VC hoạt động trong vùng này.







  Suốt trong 8 ngày qua, VC tử thủ tại nơi này, dựa trân một địa thế thật hiểm trở, nào là những hàng tre kín mít, nào là cây cối rậm rạp, nào là nhà cửa san sát. VC biết rằng vì sợ sinh mạng và   tài sản của dân chúng bị hư hại nên QLVNCH sẽ không mạnh tay tấn công vào những nơi chúng đang trú ẩn, vì vậy  chúng ta không thể nhanh chóng thanh toán bọn VC, trong khi chúng chỉ có trên dưới một tiểu đội. Trong nhiều trường hợp, VC còn bắt giữ dân chúng làm con tin hoặc đỡ đạn cho chúng. VC lại đào hầm kiên cố để ẩn nấp. Nên các lực lượng hai bên rình nhau như mèo với chuột, bên naò hờ cơ để lộ mục tiêu thì bên kia bắn.





  Không tiến được, quân đội phải dùng phi cơ và pháo binh oanh kích vào phòng tuyến tử thủ của VC. Đạn đại bác chỉ nổ cách phòng tuyến Nhảy Dù độ 50 mét. Từ 18 giờ trôi qua người ta ghi nhận có đến 16 phi tuần đã oanh  tạc xuống khu vực trên. Sau hơn 10 ngày, cuộc giao tranh ở đây vẫn tiếp diễn khốc liệt. Mỗi ngày cánh quân của VNCH chỉ tiến được mấy trăm thước, càng tiến vào càng thấy khó khăn vì đường ngang ngõ ngách như  mạng nhện. Thêm vào đó nơi đây trước kia là nghĩa trang mà nay dân chúng làm nhà trên đó, mồ mã ngay cả trước nhà. Quân đội và VC vẫn rình mà bắn nhau. Không Quân vẫn yểm trợ. Nhảy Dù phải tiến chiếm từng căn nhà một cách chậm chạp.





  Lực lượng Thuỷ Quân Lục Chiến được tung vào để tiếp tay với Nhảy Dù ở mặt trận Cây Quéo. Mặt trận hôm nay có vẻ quyết liệt hơn. Bom lửa được xử dụng.Hướng tiến quân cũng bất thần đổi chiều để đánh xuyên hong VC. Mọi ngày hướng tiến quân từ Nam qua Bắc  , nhưng tới hôm nay thì đổi khác. Lực lượng của Thuỷ Quân Lục Chiến  và Nhảy Dù song song nhau đánh từ Tây sang Đông. Lẫn trong tiếng bom nổ lại có tiếng súng nhỏ và tiếng lựu đạn điểm thêm. Đại Uý Sơn thuộc Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù cho biết để tránh bom khi máy bay tới, VC thường mò vào sát tuyến của ta.
  Một cuộc tiến quân hết sức gay go từ sáng đến chiều, Mặt trận chung  quanh Lập Thành mới được giải quyết. TQLC chiếm chùa lúc 17 giờ 30 sau 13 ngày giao tranh. Trong cuộc hành quân này, Nhày Dù hạ được 8 VC, bắt sống 5, tịch thu 10 súng đủ loại. Về phía TQLC, họ hạ được 24 VC, bắt sống 16, tịch thu 13 AK và 3 khẩu B-40, B-41.




  Trong những ngày kế tiếp, Nhảy Dù và Thuỷ Quân Lục Chiến phối hợp cùng nhau hành quân lục soát vùng này và được coi như là xong hẳn.  Nhảy Dù khám phá được một hầm chôn xác địch tập thể gồm 56 xác. Tiểu đoàn Nhảy Dù phải làm nhiệm vụ thu dọn chiến trường, nhặt chôn các xác chết mùi thối bốc lên nồng   nặc  để dân chúng khỏi kinh sợ khi trở về.
  Tổng kết trận này, riêng  Nhảy Dù hạ được khoảng 100 Vc, bắt sống 10 tên, tịch thu gần 30 súng. Còn tại xóm Thơm, quân đội hạ 5 VC, bắt sống 8, tịch thu 5 súng AK, 1 khẩu B-40, 1 B-4, 1 M-79 và 1 súng lục Trung Cộng. Bên quân đội có một hạ sĩ tử thương.
  Này 5/6/1968 Chấm dứt mặt trận khu Lập Thành. Chiến trận chuyển sang vùng Cây Quéo. VC đã bị QĐVNCH bao vây dồn trong khu tứ giác Ngô Tùng Châu, Hoàng Hoa Thám, Lê Quang Định và một con đường không tên. Trong khi đó, VC định lòn qua xóm Thơm để đánh vào khu vực gần Bộ Tổng Tham Mưu.
  Các cấp chỉ huy VC muốn mở mặt trân lan rộng ra đã bị các lực lượng VNCH kềm chế nên chấm  dứt ngày 11 tháng 6/1968, do VC tự động rút lui sau khi bị thiệt hại quá nặng.
  Vào lúc 2 giờ 20 sáng ngày 4/6/1968, một đơn vị của Liên Đoàn Trần Hưng Đạo chạm súng  với VC tại vùng xóm Thơm gần Bộ Tổng Tham Mưu. Lúc đó VC vẫn cố gắng xâm nhập sâu vào thành phố. VC định khai thác những kẽ hở để đột nhập vào.





   Ngay tại mặt trận này, lực lượng chính phủ đã phục sẵn để chậm lối xâm nhập của VC vào khu vực phòng thủ Bộ Tổng Tham Mưu. Bất chợt khi VC len lỏi đến, một trung sĩ canh gác trông thấy nên găn lại. Vc nổ súng hạ sĩ quan này và định tràn vào bộ chỉ huy của một đại đội phòng ngự. Nhưng quân phòng thủ đã phản ứng kịp thời bắn hạ toán tiền phong của VC 5 người. Vào buổi sáng Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù được tăng cường đến để lục soát diệt địch.
   Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù của Thiếu Tá Nhã chia quân làm nhiều cánh tiến sâu vào đuờng rày xe lửa. Khi băng qua nghĩa địa nhiều súng AK bắn ra khiến 3 chiến sĩ Nhảy Dù bị thương nhẹ. Thành ra VC đã lợi dụng các mồ mả làm cộng sự chiến đấu. Chiến trận ở đây cũng gay go không giải quyết ngay được. Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù phải lục soát khu tứ giác Ngô Tùng Châu,Hoàng Hoa Thám,Lê Quang Định. Các lực lượng khác như lực lượng của trại Trần Hưng Đạo án ngữ xung quanh.
  Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù đã hoạt động hết sức khó khăn lùng diệt từng ổ địch. VC cứ vài ba tên họp thành một tổ chiếm các nhà dân hoặc chùa chiền mà cầm cự bắn sẻ. Nhà cửa khu này san sát như bát úp, có nhiều cao ốc rất tiện lợi cho VC lợi dụng làm pháo đài cố thủ. Lực lượng Nhảy Dù không được sử dụng các mức tối đa để tránh thiệt hại cho các dân chúng. Suốt cả buổi sáng 5/ tháng 6/ 1968 lùng đuổi VC, các binh sĩ Nhảy Dù mới hạ được 2 tên VC, bắt sống 1 và tịch thu 2 súng AK, 1 khẩu B-40.





  Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù càn quét từ Nam lên Bắc khiến VC rút từ  một số cao ốc về tăng cường cho nhóm phòng thủ tại chùa Trúc Lâm. Buổi sáng, Tiểu đoàn này chia khu vực hành quân  làm 4 khu, A,B,C và D. Hai khu A và B cách đường Ngô Tùng Châu độ 120 mét và đã đuổi sạch địch.
  Ngày 6/6/1968. Từ sáng sớm, lực lượng Nhảy Dù vẫn tiếp tục quét sạch VC ở mục tiêu C, trong đó có ngôi chùa Trúc Lâm. Vào 3  giờ chiều mặt trận ngã ba Cây Quéo đột nhiên trở nên dữ dội. VC từ trong nhiều công sự phòng thủ quanh các gôi chùa Linh Sơn và Trúc Lâm thi nhau dùng súng SKZ 57 ly và B-40 thổi ra. Từ các bụi tre rậm rạp, hoả lực VC  nổ ròn không kém. Nhiều chiến sĩ Nhảy Dù đã ngã gục  mà mục tiêu chưa thanh toán được.





  Ba lần, Đại đội 93 do Trung Uý Tân chỉ huy xung phong vào đều bị 2 khẩu thượng liên địch đẩy lui. Lần đầu tiên trong trận này, Vào hồi 4 giờ chiều, các binh sĩ Nhảy Dù phải xử dụng đại bác 90 ly và bích kích pháo cỡ 81 ly. Trọng pháo hoạt động rót vào phòng tuyến VC. Mảnh đạn làm tung cả  những cây tre văng lên trời rớt trùm xuống đầu toán khinh binh Nhảy Dù. Sau khoảng hàng trăm  quả trọng pháo, 6 giờ chiều khu chùa Trúc Lâm quân ta mới làm chủ được trận địa.
  Ngày 7/6/1968. Sáng sớm, lính Nhảy Dù mới băng qua khúc đường Hoàng Hoa Thám nối dài, nơi đã bị VC phong toả 3 ngày liền, để chiếm lại ngôi chùa Linh Sơn. Tại khu vực này, cây cối đều cháy xám, bụi tre bứng gốc nát bấy, những ngôi mả tan hoang nhiều máu me loang lỗ và mùi hôi xông lên nồng nặc. Có khoảng 30 hầm hố có cửa ra vào vuông vắn, bên trên nốc xếp gỗ lớn, đồ đạc áo quần với một lớp đất phủ lên. Nhiều đạn rớt trúng những công sự nhưng không hề hấn gì. Phần lớn các hầm này được VC đào theo hình chữ U có 2 cửa song song và bằng nhau, từ đó họ có thể bắn bên này rồi lại thò  súng qua bên kia bắn tiếp. Tại đây, quân đội tìm thấy 5 súng AK  và một nơi chôn xác, thịt đã rữa.





   Nhập trận buổi sáng ngày 8 tháng 6/1968, Tiểu đoàn Biệt Kích Nhảy Dù xuất phát từ Trung Tâm Tịnh Xá mở hành quân thăm dò địch đóng tại khu vực trường Đức Tin. Đại dội 1 đi tiên phong. cuộc đụng độ xảy ra lẻ tẻ từng lúc. Biệt Kích Dù phải mang vào trân địa cả súng không giật 106  ly để yểm trợ cho cuộc tiến quân. Đến 14 giờ, sau khi biết rõ vị trí VC, lực lượng Biệt Kích Dù liến ngưng các cuộc thám kích mà chỉ bao vây để ngăn địch xuất hoặc nhập khu vực.
   Đến 19 giờ, Biệt Kích Dù bắt đầu mở cuộc công kích bằng hoả lực đủ loại súng vào hướng VC. Liền trong 2 giờ như vậy, bất thần mọi loại súng đều im bặt, VC cũng im theo.
  Trong sự im lặng ấy, 15 toán Biệt Kích Dù và Delta lặng lẽ xung trận, mọi người ngoài vũ khí mang theo 10 quả lự đạn trườn mình vào mục tiêu. Họ cứ 3 người vào một tổ, khi còn cách tuyến độ 10 mét, những người lính này đánh bằng lựu đạn. VC cuống cuồng phản ứng lại bằng B-40. Phòng tuyến đầu của VC bị tan vỡ. Vác Biệt Kích Dù và Delta liền xung phong đánh xáp lá cà. Một số VC chết và bị thương, và một số khác tách làm hai mũi mở đường  máu chạy thoát thân. Đến sáng, quân đội hoàn toàn làm chủ tình hình. 





  VC để lại 21 xác, và một người bị bắt. Phía quân đội có 9 tử thương. Tù binh VC bị bắt khai thuộc Tiểu đoàn 1 của Trung Đoàn Đồng Nai mới xâm nhập vào đây được 3 hôm.
  Ngày 9/6/1968. Đại đội 52  lực lượng Nhảy Dù nằm án ngữ trong khu tứ giác Lê Quang Định, Trần Bình trọng, Ngô Tùng Châu và đường ranh xóm Thơm với 4 chiến xa M-41 hỗ trợ. Váo chiều ngày 9 tháng 6/ 1968 bị các đơn vị thuộc Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù ép từ phía Tây Nam qua, VC bị lọt vào trong gọng kìm nên đã dồn hết hoả lực vào Đại đội 52/5 Nhảy Dù bằng đủ loại súng lớn nhỏ để toan mở đường chạy về phía cầu Băng Ky. Lúc 20 giờ 20, Vc nhận thấy không chọc thủng nổi phòng tuyền của Nhảy Dù nên họ phải di chuyển về hướng xóm Thơm. Kể từ 10 giờ đêm trở đi tiếng súng của VC thưa dần.




  Ngày 10/6/1968. Việt Cộng dường như vẫn tiếp tục xâm nậhp thêm quân. Đột nhiên 2 Đại đội Biệt Cách Dù đóng tại Trung Tâm Tịnh Xá bị VC từ hướng Đông Bắc kéo đến phản công và bao vây.
  Thoạt tiên vào lúc 13 giờ trưa, VC từ hai cao ốc và một khu vườn rập rạp ở ngay xế cổng bên hong chùa nổ súng uy hiếp. Trung Uý Bình, Đại đội trường, liến chia quan làm 2 cánh. Một cánh từ cao ốc đối diện khai hoả vào địch, cánh thứ hai từ góc chùa đánh thẳng vào cao ốc xế trước mặt. Toán Vc ở cao ốc thứ 2 bên hong chùa họp với toán chiếm ở vườn cây, liền khai hoả vào cánh quân Biệt Cách  Dù đang tiến tới. Trung Uý Bình chi một toán quân thứ 3 từ hông chùa phía Bắc đánh thẳng vào toán VC ở vườn cây. Trong khi đó, toán quân xuất phát đầu tiên nhất loạt tràn sang  chiếm   cao ốc trước cổng chùa. VC bỏ lại 6 xác chết. Số còn lại bỏ chạy về cao ốc phía hông chùa.
  Mũi dùi đánh vào khu vườn không tiến lên được vì có 2 khẩu B-40 của VC đặt dưới một gốc cây. Các binh sĩ Biệt Cách Dù phải xử dụng rốc kết 35 ly. Kết quả 3 xạ thủ VC chết tại chỗ. Khi lên lấy 2 khẩu B-40 mới thấy 3 người này đều bị xích tay vào nhau.
  Còn cao ốc bên hông chùa, Biệt Cách Dù phải dùng đại bác 90 ly phá thủng tường nhà làm lối cho cánh quân vừa chiếm lầu trước khi xung phong vào. VC bỏ chạy qua bên kia đường Trần Bình Trọng, để lại trận địa cả thảy 25 xác chết. Một nhóm Biệt Kích Dù liền vượt lên gần đường Trần Bình Trọng. VC liền  vác thượng liên đặt lên một chiếc xe be đậu ở trên đường nã đạn như mưa bấc.
Toán khinh binh không tiến nổi.





  Nhưng ít phút sau đó, một toán quân Biệt Cách Nhảy Dù dùng súng M72 thổi vào chiếc xe be này 1 quả. Cây thượng liên bị bắn tung lên cao văng lộn vào trận địa địch. Xạ thủ và phụ xạ thủ VC đều tử thương. Một nhóm BKND tiến lên dùng lựu đạn  thanh toán những VC núp trong hố sát tường. Nhưng BKND không vượt đường Trần Bình Trọng vì bên đó là phần đất trách nhiệm  của TQLC. 
  Chiều ngày, 10 tháng 6/1968 VC đốt một vài căn nhà ở phía sau chùa Dược Sư có lẽ để cản đường quân đội, hầu mong tìm lối tháo lui. Họ bắn mấy phát rồi lợi dụng cây cối um tùm mà bỏ chạy. VC rút đi quá vội vàng, bỏ ngỏ một khu trận địa mà họ đã sửa soạn từ trước để làm nơi cố thủ. Khu này diện tích khoảng 10,000 mét vuông. Bên trong chuối mọc như rừng, cỏ hoang rập rạp, VC đã đào trong khu vực này  50 hầm chiến đấu. Mỗi hầm có 2 cửa, một hầm phía trong 1 hầm phía ngoài cũng một kiểu như đã thấy tại quanh chùa Linh Sơn, nơi xảy ra trận đánh nhau sáng ngày 7 tháng 6/1968 giữa VC và Đại đội 94 Nhảy Dù.
  Với địa hình địa vật và sửa soạn như vậy, tại sao Vc lại rút đi quá vội vàng, có thể vì họ tổn thất quá nhiều không còn đủ sức cầm cự mặt trận Cây Qúeo  nằm   trong khu tứ giác Lê Quang Định, Trần Bình Trọng,Ngô Tùng Châu và ranh xóm Thơm kể  từ ngày 11 tháng 6/ 1968 được coi như chấm dứt.




  Trong trận Tổng công kích lần thứ hai, Tướng Nguyễn Ngọc Loan  bị trọng thương vào ngày 5 tháng 5/ 1968.   Ngày 12/6/1968 Vừa dứt mặt trận Cây Quéo, mặt trận Cây Thị lại mở ra trong ngày 12/6/1968 rất sôi động. Sau đúng một tuần lễ giao tranh, các đám tàn quân VC kiệt quệ định rút lui mà không có lối thoát để rồi cuối cùng tất cả những kẻ sống sót còn lại của Trung đoàn Quyết Thắng đã phải đầu hàng tập thể ngày 18/6/1968.
  Tóm lại, Trung đoàn Quyết Thắng của VC coi như hoàn toàn tan rã sau khi 152 cán binh thuộc hai Tiểu đoàn 1 và 2 ra đầu hàng. Theo lời hàng binh Thượng Uý Phan Văn Xưởng thì Trung đoàn Quyết Thắng khi xâm nhập vào có 400 cán binh trang bị đầy đủ. Đến chiều  17 tháng 6 Trung đoàn này chỉ còn 229 người, trong đó có 120 bị thương nhẹ. Trung đoàn trưởng Ba Vinh chết ngay lúc đầu. Chính Uỷ Hai Phái lên thay. Với số hàng tập thể và bị chết trong các vụ chạm súng ngày  cuối ở vùng cầu Băng Ky, Trung đoàn Quyết Thắng chỉ còn lối 20 người lọt lưới chạy thất tán.





  Trung đoàn Đồng Nai cũng bị tổn thất nặng trong các vụ chạm súng những ngày đầu tiên ở vùng Cây Quéo. Mặt khác, một lực lượng của Trung đoàn này định tăng viện cho mặt trận Gia Định thì đã bị lực lượng Nhảy Dù gây tổn thất nặng ở vùng An Phú Đông. Quân số còn lại của Trung đoàn này lối 250 người phải rút về vùng Bình Mỹ, 9km phía Tây Bắc Tân Uyên.
  Tại mặt trận Chợ Lớn, Phân khu 2 của VC điều động Tiểu đoàn 6 Bình Tân và Tiểu đoàn 308 phân tán xâm nhập từ Phú Định vào các khu vực dân cư phía Nam Chợ Lớn. Hai Tiểu đoàn này rút ra chỉ còn khoảng 100 người chạy về mật khu Bà Vụ để bồi dưỡng.





   Suốt trong thời kỳ tấn công vào thủ đô, không đêm nào là VC không bắn hoả tiển 122 ly vào thành phố. Cứ mỗi lần có pháo kích là có cháy nhà, người chết và bị thương. Nhịp độ pháo kích vào đô thành sau ngày 18 tháng 6/ 1968 giảm thiểu và sau vụ pháo kích chót vào phi trường Tân Sơn Nhất đêm 21 tháng/1968 mới chấm dứt hẳn. Thiệt hại của VC khoảng trên 50% quân số.

Thay lời kết:

  Mặc dù trong 2 đợt tấn công vào thủ đô, CSBV hoàn toàn thất bại trên khắp các mặt trận, nhưng chúng khai triển được ý6u tố bất ngờ và tạo được dư luận quốc tế có lợi cho mặt tuyên tuyền của chúng. Chúng ta bị bất ngờ nhưng cũng phải nói thêm là vì ch1ung ta khinh địch. Dân chúng và các lực lượng hành chánh lẫn quân sự ít ai tin rằng VC dám ngang nhiên vi phạm lệnh hưu chiến trong 3 ngày Tết mà chúng ta đã cam kết. Rất nhiều đơn vị đã cho phép số lớn các quân nhân về ăn Tết với gia đình. Việc phòng thủ do đó bị lơ là ít nhiều, tạo điều kiện tấn công của VC.
   Hơn nữa"TCK Mậu Thân" là một âm mưu sâu hiểm của tư Bản "muốn táo chạy trong danh dự"( WAR đồng nghĩa với Withdraw And Run) mà Kissingger là tay phù thuỷ nham hiểm điều hợp viên chủ động cấu kết với kẻ thù CSBC nhằm làm suy yếu khả năng của QLVNCH, trong khi CSBV muốn triệt hạ lực lượng quân sự của VC tại miền Nam để thay thế nhân sự bằng lực lượng xâm  nhập từ miền Bắc. Năm 1967 Hoa Kỳ đã thua trận ngay tại Mỹ trên đường phố, trong nhà thờ, trong các đại học, trong Quốc Hội và ở cả diển đàn quốc tế. Vì thế, để chuẩn bị cho việc tháo chạy trong danh dự, Kissinhger đã xếp đặt cho VC được hợp pháp trở thành một thực thể( mà thành phần chủ chốt xâm nhập từ miền Bắc) có thế giá tương xứng.





  Từ đầu tháng 12/1967, Tổng Thống Johnson đã được báo cáo đầy đủ  về các chuyển động quân sự của Hà Nội, ngày 21/12/1967 Hoa Kỳ đã rõ biết giờ giấc cuộc tấn công của VC nhưng phía chánh phủ Mỹ vẫn im lặng.
  Ngày 23/12/1967, khi đến dự tang lễ Thủ tướng Úc là ông Holt, Tổng Thống Mỹ đã thông báo cho chính phủ Úc trong một cuộc họp mật rằng "CSVN sẽ tổng tấn công quyết tử trong vài tuần tới".
  Và một kết quả đúng như dự liệu và sách lược của chính phủ Hoa Kỳ là sau trận chiến, mặc dù thảm bại nặng nề về nhân lực cũng như trang bị, cái gọi là "Chính phủ lâm thời Cộng Hoà miền Nam" được ra đời.
  Sau trận  TCK Mậu Thân, tình hình an ninh tại miền Nam trở nên tốt đẹp hơn bao giờ hết, hạ tầng cơ sở của VC cơ hồ như tan rã. Hoa Kỳ chuẩn bị Việt Nam Hóa chiến tranh. CS đã thảm hại trên chiến trường với những tồn tại lớn lao nhưng lại là một thành công của họ về mặt ngoại giao trên chính trường quốc tế.






  Ngày nay tất cả mọi người đều biết rõ ràng đến biến cố Tết Mậu Thân và Tổng Thống Hoa Kỳ là Johnson và tay phù thuỷ Kissinger phải trực tiếp chịu trach nhiệm vì đã cố tình tạo nên một lỗi lầm nghiệm trọng về đạo đức, gây tử vong cho hàng trăm ngàn người  dân VN  vô tội có thể tránh khỏi nếu được báo trước sự thật.
  (Trích đăng bài của Đại Uý Võ Trung Tín, Tiểu Đoàn trưởng Truyền Tin Sư Đoàn Nhảy Dù. Và Đại Uý Nguyễn Hữu Viên, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù)





  Tổng Thống Johnson tuyên bố  xuống thang chiến tranh, đồng thời không ra tranh cử trong nhiệm kỳ tới. Cũng trong năm này,  trước ngày 16-3-1968. Mỹ Lai một ấp nhỏ cách Đà Nẳng khoảng 7 dậm Anh, cuộc tàn sát hàng trăm dân đã gây phẩn nộ trong lòng người dân Việt, do Trung Uý William L.Calley Jr , Trung đội trưởng thuộc 23rd Sư đoàn Bộ Binh. Ra toà ông khai bởi thừa lệnh của cấp trên. Tại miền Nam Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rust  đảm nhận chức vụ từ năm 1961 đến 1969. Bộ Quốc Phòng Mỹ là ông  Robert S McNamara. Cố vấn An Ninh Quốc Gia là ông Walt W. Rostow. Đại Sứ Mỹ từ năm 1967 đến 1973 là ông Ellsworth Bunker.



  Sau Tết Mậu Thân cho đến cuối năm 1968, tổng cộng Quân đội Mỹ tại miền Nam lên đến 525.000 binh sĩ. Chiến dịch oanh tạc miền Bắc kéo dài từ tháng 3-1965 đến tháng 11-1968 mới chấm dứt. Phi cơ Mỹ  đã thực hiện 304 ngàn  phi vụ chiến thuật cùng vời.380 phi vụ B-52, đã bỏ khoảng 643 ngàn tấn bom lên miền Bắc VN. Trong khi Mỹ dội bom giết người miền Bắc, thì VC trả đủa pháo kích giết người miền Nam.
  Trước khi hết nhiệm kỳ Tổng Thống Johnson ra lệnh chấm dứt oanh tạc Bắc Việt, để chuẩn bị  hoà đàm tại Paris. Cuộc hoà đàm sơ bộ giữa W. Averell Harriman và Xuân Thuỷ bắt đầu ngày 10-5-1968. Tướng Creighton W Abrams thay thế Tướng William Wesmoreland, ngày 1-7-1968 tiếp tục cuộc hành quân.



Tướng Creighton W.Abrams

  Khi Tổng Thống  Johnson tuyên bố xuống thang chiến tranh ngày 31-3-1968, thì vào ngày 27-4-1968, một cuộc biểu tình phản chiến vĩ đại nhất  xảy ra tại Central Park (New York), đòi chấm dứt chiến tranh và đòi quân đội Mỹ rút quân khỏi VN. Nơi khởi điểm phong trào phản chiến là trường Đại Học Bekeley.
  Đảng Cộng Hoà Nixon đã đánh bại Phó Tổng thổng H. Humphrey đảng Dân Chủ . Richard Milhows Nixon nhậm lễ tuyên thệ ngày 22-11-1969. Tổng Thống thứ 37 của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Henry Kissingger thay thế Walt W Rpstow chức cố vấn an ninh kiêm Tổng Thơ Ký. Ông Melvin Laird  thay thế C. Clifford là Bộ Trưởng Quốc Phòng.


 Richard Milhous Nixon
Tổng Thống thứ 37 của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.

  Để phản ứng lại cuộc tấn công của CS, Tổng Thống Nixon ra lệnh sử dụng phi cơ B-52 để oanh tạc miền Bắc. đồng thời cô lập Hải Phòng bằng thuỷ lôi. Và cũng từ năm  1968 đến năm 1971 đường phố Sàigòn phản chiến rộn rịp xuống đường.




(Xin đọc tiếp  Định Mệnh -Tôi làm goá phụ)