Thứ Năm, 20 tháng 11, 2014

Nghiệp Duyên 1



Bút Ký:          Nghiệp Duyên 1

Mẹ Việt Nam

Tác giả:          Thanh Hiền-Dị Nhơn

Tu viện Hoa Thức
hoathuctuvien.blogspot.com

Bell thành phố sương mù -2015









Mẹ Việt Nam


Mẹ Việt Nam... mẹ Việt Nam
Đau thương chinh chiến bao năm mõi mòn
Khóc chồng rồi lại khóc con
Nuôi đàn cháu dại khi còn trong nôi!




Mẹ Việt Nam ơi quá nhiều đau khổ
Bước nhọc nhằn vai nặng gánh lo âu
Chiếc lưng còng... còng thêm đời mưa gió
Giữa dòng đời gối mõi biết về đâu?






    Nhìn những tấm ảnh bà mẹ Việt Nam do nhà văn Sơn Tùng gửi cho tôi trong email, khiến tôi vô cùng xúc động. Những nếp nhăn, với mái tóc bạc phơ, đôi chân trần, chiếc lưng còng  thêm cái đòn gánh làm tôi mũi lòng! Thương quá những bà mẹ Việt Nam ơi! 


Mẹ Việt ơi... Mẹ Việt ơi
Trên lưng hằn vết in đời đau thương
Bữa qua tiễn cháu lên đường
Thở dài mẹ dấu buồn vương mắt rồi!





Mẹ dấu mặt với niềm đau nỗi khổ
Khăn che đầu, che nắng với che sương
Gánh hàng rong như gia tài nho nhỏ
Ngày từng ngày mẹ bán khắp quê hương !






   Đó là hình ảnh bà mẹ Việt Nam tôi đã từng thấy ở chợ quê,  trên đường phố Sàigòn. Vùng quê tôi Bà Rịa cũng không thiếu những bà mẹ quê với gánh hàng trên lưng, tảo tần nuôi chồng, nuôi con. Có bà chồng đi tập kết ra Bắc biền biệt, vừa làm mẹ vừa làm cha mà tuổi xuân cũng bay theo tháng ngày chờ đợi.







   Những đứa con khôn lớn, có đứa lại vô chiến khu biền biệt không về, đứa thì đi lính trấn thủ phương xa, mà đời lính nghèo, mới giữa tháng đã đói meo mà tiền đâu để gửi về nuôi mẹ. Dầu tuổi mẹ đã già, tóc đã bạc, lưng đã còng, có lẽ vì những năm tháng gồng gánh đã quá sức chịu đựng của mẹ. Mẹ lại một thân, một mình với gánh hàng rong kiếm sống.






Bước chân trần mẹ bước trên sõi đá
Gánh hàng rong mẹ nuôi đám con hiền
Con khôn lớn bỏ mẹ đi biền biệt
Mẹ đã già đói khổ vẫn triền miên...

   Mẹ ước mơ ngày quê hương im tiếng súng, chồng cùng các con sẽ về. Rồi 30 tháng tư năm 1975, giải phóng miền Nam, ngày Quốc Hận,  người Quốc Gia mất Miền Nam. Còn Mẹ Việt Nam mất chồng,miền Bắc trả lại mẹ người chồng tập kết nhưng cay đắng và đau xót thay, người chồng cả đời mẹ chung thuỷ đã có thê tử khác! Mẹ ngỡ ngàng, nghẹn ngào nuốt lệ vào trong, lùi một bước, nhẫn nhục mà nhường lại chồng cho kẻ khác. Cả một đời xuân sanh mẹ chờ đợi, mẹ đã nhận được gì? 








       Cùng một lúc mẹ được tin con của mẹ trong Quân Đội Cộng Hoà, đã nằm xuống khi vừa ngừng cuộc chiến, xác đã tiêu tan trong vùng lửa đạn. Thằng con ở chiến khu về, có chút địa vị,  thấy mẹ bần hàn lam lũ nên sợ xấu mặt chẳng dám nhìn mẹ. Mẹ lại lê bước chân trần dầm mưa dãi mắng, phải kiếm sống bằng vài bó rau, vài trái mướp, dăm củ khoai, vài nắm lá me...





Mẹ già một nắng hai sương
Oằn vai một gánh chuyện buồn quê hương





Mẹ Việt  Nam ơi có còn mơ ước
Ngày thanh bình mẹ buông gánh hàng rong
Con đường nhỏ lối mòn chân vẫn bước
Ai mua không mẹ bán mối tơ lòng!


    Những bà mẹ Việt Nam đó tôi gặp lại sau năm 2.000, trong đó có bà Sáu Mía ở xóm Đồng, ngày xưa bà bán tôm. Con bà đông lắm, cả trai lẫn gái cũng gần chục có đầu, nào cháu nội, cháu ngoại, cháu cố, bằng cả Đại Đội. Nhưng bà chẳng ở với đứa con nào, bà hay ngủ nhà tôi lúc má tôi chưa qua đời. Bà cất cái chòi nhỏ gần nhà mấy đứa con, với cây gậy bà rảo quanh làng trên, xóm dưới, hái rau càng cua, suốt lá me, hái rau bình bát, kiếm vài chục ngàn để sống qua ngày. Bà hay ghé nhà em tôi và rất tự nhiên vào bếp có gì ăn nấy.





      Gần bên xóm Đình thì có bác Tám Tất, xuôi gia của má tôi, bác  bán cá ngoài chợ, dì Ba Dời ngày xưa cũng bán cá, sau này biết Phật pháp nên bỏ nghề, có con ở nước ngoài chu cấp cho bà, nên không còn vất vả nữa, nhưng bà vẫn hay bưng vài nải chuối, dăm ba mục măng ra ngồi chợ cho vui, để nhớ lại cái thuở nhọc nhằn gian khổ .Thế hệ của các bà mẹ Việt Nam ngày xưa đã đi gần hết,  thế hệ kế tiếp không còn gồng gánh nữa. Bà mẹ Việt Nam mới đi bằng xe đạp, không còn ăn trầu, mà nhai kẹo cao su, xài cả cp .



   Nếu ta có dịp đi đây đi đó, nếu đem so sánh tất cả các bà mẹ trên hành tinh này, thì tôi nghĩ các bà mẹ Việt Nam là bà mẹ bất hạnh nhất, thua thiệt nhất và đau khổ nhất! Biết bao người viết về mẹ, cả thơ lẫn văn và nhạc, như vừa đây nhà văn Phạm Trần đã viết về mẹ ông khi mẹ qua đời. Bà đã hy sinh  cả quảng đời xuân sanh, thay chồng khổ cực nuôi con. Bà may mắn ở phút cuối đời, có phước được con cháu hiếu thảo, bà thật là hạnh phúc.
     Những thế hệ của bà, những cụ trên chùa Long Vân phần đông khi goá bụa thì ở vậy nuôi con như cụ Như (Hồng Truyền), bác Năm Lành, nhạc mẫu Tướng Phan Hoà Hiệp, cụ Nguyễn Khoa Thanh Bình (cô của Tướng Nguyễn Khoa Nam), chị Thu áo tím... Các bà mẹ thời đó một mình có thể buôn gánh bán bưng tảo tần nuôi đàn con 10 đứa. Trong khi đó đàn con 10 không nuôi nổi một bà mẹ.
Một mình nuôi bảy tám con
Sáng, chiều vất vã đêm còn vá may
Mồ hôi mẹ tưới luống cày
Nhọc nhằn mưa nắng chân tay lấm bùn





  Bản nhạc Nhớ Mẹ của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo viết trong tù thật là cảm động, khiến khán giả rơi nước mắt, thương quá những đứa con bất hạnh. Vào thời chinh chiến những bà mẹ phải gồng gánh các con, một bên là gia tài mang theo được. Bên nào nặng và bên nào nhẹ? Ôi cao quý thay tình mẹ thiêng liêng, sự hy sinh, nhẫn nhục, chịu đựng của người mẹ Việt Nam không bút mực nào tả hết.






Trên vai một gánh tình thương
Dù cho mưa nắng gió sương nhọc nhằn
Với con chẳng nại khó khăn
Chông gai sõi đá chân trần đã chai 
Tình non, tình nước trên vai
Quê hương lửa khói ngày dài chờ mong





     Vào năm Tết Mậu Thân, lúc Việt Cộng tấn công vào thị xả Bà Rịa , khi hai bên giao tranh, tiếng súng, tiếng đạn pháo rền trời, tiếng phi cơ, khói mầu mù mịt. Tiếng đồ vật trúng đạn bể loảng xoảng, tiếng thùng phi bị trúng đạn nước chảy ào ào... Chợt nghe tiếng kêu thương thật lớn của một người lính hay bộ đội bị thương?

    "Mẹ ơi! Chết con... rồi... mẹ ơi....!!!"

Anh gọi mẹ lúc lìa đời
Tiếng kêu thảm thiết như lời quê hương
Mẹ ơi xác gửi sa trường
Chết trong tức tưởi tang thương mấy bờ

  Tiếng gọi mẹ thảm thiết nhỏ dần rồi tắt hẳn, làm tôi liên tưởng đến anh  Tám Búp của tôi, khi trúng đạn pháo anh chết liền ngay  lúc đó, hay anh gọi mẹ như người lính hay bộ đội kia không?






        Cuộc đời của má tôi cũng vất vả trăm chiều, bà không biết Tình Yêu là gì, khi lớn lên người bà con mai mối, ông bà ngoại gả cho một người goá vợ, có một đứa con gái, lại lớn hơn 8 tuổi. Cậu tôi (cha) gia đình khá giả, gốc người Bắc, Tổ Tiên vào Nam lập nghiệp từ thời chúa Nguyễn, nên trong đất có ao rau muống, chắc là mang giống từ Bắc vào? Tổ tiên là nhà giáo nên các con trai đều có học và giỏi chữ nho. Má tôi thì như phần đông phụ nữ thời bấy giờ đều mù chữ.



Ái nữ Diễm Chi-bà ngoại



   Vì người chị Năm đi kháng chiến và chết vào tuổi 17, nên cậu bị liên luỵ phải ngồi tù, vì "tội con làm cha chịu". Má phải tần tảo nuôi đàn con gần 10 đứa. Bên Long Hương xóm Đồng chỉ có má là lò báng tráng duy nhất, kiêm " bà mụ vườn" đở đẻ hình như gần hết trong xóm.
  Từ ngày cậu ngồi tù, một mình má xoay trở, lèo lái thật gian nan, thân cò lặn lội dưới cánh đồng từ tờ mờ sáng, cho đến tối mò, dầm mưa, dang nắng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời.





Mẹ dầm sương dãi nắng
Suốt đời những âu lo
Quảng chi đời mẹ thân cò
Cho con  luôn được ấm no mẹ mừn

   Qua mùa gặt xong, dù không phải buôn gánh bán bưng, nhưng má phải ngồi lò từ sáng cho đến tối trên cái lò  hừng hực nóng, những giọt mồ hôi ướt dầm cả áo, xót cả mắt. Má tráng từng chiếc bánh, má trồng từng giồng khoai...

Mẹ thức khuya dậy sớm
Lao nhọc bên luống cày
Cho con ăn mặt đủ đầy
Còn riêng phần mẹ ngày ngày gian nan

   Thời buổi loạn ly, cuộc sống khó khăn, người "thắt lưng, buột bụng", để các con còn được cấp sách đến trường, quần áo còn lành lặn, chưa phải ăn cơm độn với khoai. Sáng cuối tuần tay xách, nách mang, tôi bồng em theo má bước đi trong im lặng, bóng má buồn hiu hắt trong sương mù, lặng lẻ qua cầu sông Dinh.





Nuôi cha lao ngục tù đày
Tuổi xuân của mẹ mù bay mất rồi


     Má tôi hay đeo dôi bông tai vàng mù u, lúc nào cũng mặc những mầu u ám nên trông người già trước tuổi. Lúc nào cũng chiếc quần đen với cái áo túi trắng quanh năm, áo dài, áo bà ba thì là mầu ve chai, màu nâu, màu xám, chưa bao giờ mặc áo bông hoa, chưa bao giờ tôi thấy bà cười.







Cầu đưa em đến khám đường
Thăm cha tù tội mà thương mà buồn
Hắt hiu bóng nhỏ trong sương
Bước trong lặng lẽ buồn vương qua cầu




Cầu sông Dinh

    Cầu đưa chúng tôi đến trường, đến nhà tù thăm cậu, giòng sông Dinh suốt đời chịu đựng tất cả dơ bẩn của loài người vô ý thức vất xuống, nhận tất cả chẳng một lời than van oán trách. Mẹ Việt Nam như giòng sông kia vẫn chịu đựng mà trên đôi vai cái gánh nặng làm lưng mẹ còng xuống.




Bế em theo mẹ thăm cha
Nhìn  lằn tra tấn trên da tím bầm
Chẳng lời trách chị lỗi lầm
Có đau cha chỉ đau thầm mà thôi

    Người cha thân yêu chưa lần cho con roi vọt, chưa lần say xỉn mắng chửi vợ con, chưa lần làm mích lòng hàng xóm. Chỉ vì đứa con đi kháng chiến mà cậu phải ngồi tù. Dù bị tra tấn, cậu chẳng  một lời than thân trách phận, trách cứ hay giận chị. Dù không nói ra nhưng tôi hiểu cậu đã "tha thứ" cho chị, người con gái thương yêu bạc mệnh. Chị chết vào ngày 10-9-1953(âm lịch) vào tuổi 17.


Hỏi người có biết chị tôi
Thi hài bạc mệnh chôn vùi nơi nao?
Chị tôi xác lấp chiến hào
Hay trên rừng núi nghẹn ngào hồn oan
Quanh năm chẳng nén hương tàn
Chẳng người nhỏ lệ chưa tan nỗi hờn


    Chị chết cho lý tưởng, cho quê hương, chết ngậm ngùi chẳng có một dòng lệ xót thương, chẳng một nén hương tàn, chẳng một vành tang trắng, chị chết mà không siêu thoát, oan hồn vất vưởng lang thang. Má từ chị nên không nhận xác, không cúng, chị bị gạt ra khỏi khung ảnh gia đình.
     Cũng như những bà mẹ Việt Nam bất hạnh khác, khóc chồng rồi lại khóc con, ngày giỗ của chồng cũng là ngày người con thứ Tám tử trận. Anh mới vừa hứa hôn, anh giã  từ  vũ khí vào lứa tuổi 23. Người con trai má thương yêu nhất và kỳ vọng nhất.

Chiến trường khói lửa đao binh
Một vòng hoa trắng phủ hình hài anh
Khăn tang nước mắt chảy quanh
Ngây thơ goá phụ tóc xanh trắng rồi
Chiều nao anh chị chung đôi
Chiều nay trên mộ chị ngồi lẻ loi
Chị làm goá phụ hai mươi
Xe hoa chưa rước rượu mời chưa nâng
Xe tang trắng nẻo đường trần
Có người goá phụ chưa lần vu quy



Nguyễn Văn Búp 1943-1965

Anh về trên chiếc băng ca
Giã từ vũ khí đêm qua bên đồn
Anh về lạnh cả hoàng hôn
Mùa Vu lan trắng mồ chôn cuộc  tình
Anh về trắng nẻo sông Dinh
Hàng cau mái lá lửa binh điêu tàn
Anh về chị khóc dở dang
Nỗi đau ai biết lỡ làng ai hay
Trên mồ nắng úa chiều phai
Mưa lên áo trắng vì ai mưa buồn
Anh về nằm giữa quê hương
Chị buồn hiu hắt một phương thôi chờ
Chiều nay chị khóc bơ vơ
Cài cành hoa trắng trên mồ người thương!!!...


   Chưa đầy 2 năm, tang anh Tám Búp chưa mãn thì tới đứa con trai thứ Mười chết vì người say rượu tông ngay cầu Thủ Lựu, đường xuống Long Điền. Em Mười Thanh cũng vừa hứa hôn. Người em trai hiền lành, an phận thủ thường cũng giã từ cỏi tạm. Má như thân cổ thụ bị giông bão làm đổ xuống, như tre già phải khóc măng non.

Nguyễn Văn Thanh 1947-1967

Thương người vợ mới hứa hôn
Khăn tang trắng tóc khi tròn đôi mươi
Thi hài bạc mệnh em tôi
Chết nằm tức tưởi nghẹn ngào đau thương
Anh tôi chết ở sa trường
Em tôi chết ở ven đường quê hương
Qua cầu Thủ Lựu buồn vương
Mộ anh xanh cỏ mưa buồn mộ em!

   Gia đình lại thêm một goá  phụ trẻ mặc áo tang thay cho áo cưới. Má ngồi bệt xuống đất, người thật sự đã kiệt sức sau những lần tang thương. Những lá xanh rụng trước, bỏ lại cội già chơ vơ buồn. Bà khóc từng đứa con, bà khóc cạn nước mắt!

Mẹ tôi luôn vất vả
Chưa có một ngày vui
Cho con tất cả cuộc đời
Còn riêng phần mẹ tả tơi lâu rồi








   Đó không là chỉ chị dâu,em dâu tôi mà là số phận chung của phụ nữ  trong thời chiến. Chiến tranh quá tàn nhẫn, quá đau thương, những người dân vô tội, những trẻ thơ chưa kịp lớn, những trẻ mồ côi, chưa nhìn thấy mặt cha, những chứng tích tàn phế trên thân thể của nạn nhân chiến cuộc, nó đã nói lên điều gì? Nó có đánh động được lương tâm của kẻ gây chiến tranh? Gia đình tan nát, mẹ cha không còn, em lê la trên đường phố với chiếc nạng gỗ, màn trời chiếu đất!

Ngoài kia máu đỏ vườn cà
Đỏ trên đôi mắt lệ nhoà đau thương
Xóm thôn thành bãi chiến trường
Xác nằm chật đất thịt xương rã rời
Chiều Bồng Sơn oán ngập trời
Tang thương đổ xuống cho đời cô nhi
Chiến tranh đi còn lại gì?
Mộ cha, mộ mẹ xanh rì đời em
Tương lai chỉ có mầu đen
Chiến tranh chứng tích còn trên thân này 





Đạn bay  bom nổ không ngừng
Rớt trên đám mạ bom dừng ruộng sâu
Chiều nay em sẽ về đâu?
Nhà tan trong lửa máu đào mẹ tuôn
Xác cha vất vưởng ngoài nương
Xác anh, xác chị dưới truông tan tành
Em như chiếc lá mong manh
Trắng rồi trên mái tóc xanh ngậm ngùi
Bồng Sơn đất tắm máu tươi
Chiều nay có trẻ mồ côi không nhà!





     Trẻ thơ nào có tội gì? Ôi niềm đau nhức nhối của thế hệ tương lai. Các em sẽ sống ra sao khi không có nơi nương tựa? Có khi nào em thắc mắc và đặt câu hỏi: Đời em còn có nghĩa gì? Lý do gì mình có mặt trên cõi đời này và tại sao mình bất hạnh? 
  Và có khi nào các bà mẹ Việt Nam đặt câu hỏi? Hay chỉ ầm thầm cam chịu cái số phận hẩm hiu của mình. 






   Má tôi cũng trong số những bà mẹ Việt Nam bất hạnh đó. Bà khóc từng đứa con, bà khóc cạn nước mắt, chưa kịp nguôi ngoai nỗi buồn thì đến người con thứ Sáu. Anh trong Địa Phương Quân, anh không chết ở sa trường mà chết vì bạo bệnh, bỏ lại người vợ đang mang đứa con thứ 5. Định Mệnh đã dành cho anh không phải thây phơi chiến trường!

Đời anh lính chiến miệt mài
Ba lô áo trận sống ngoài biên cương
Anh không chết ở sa trường
Nhưng anh chết ở bên giường thê nhi
Mẹ buồn quen cuộc từ ly
Xóm buồn tang tóc từ khi giặc về



Nguyễn Văn Hoa 
1938-1971



Nguyễn Văn Hoa 1938-1971 -Điệp-Phượng


Gia đình anh chị Nguyễn Văn Hoa

Anh đi giữ trọn tình quê
Chị buồn ly biệt bờ đê lạnh đầy
Bụng mang dạ chửa héo gầy
Thêm đàn con dại từ rày thiếu cha
Đến ngày nở nhuỵ khai hoa
Biển Sầu chất ngất chị qua một mình
Tay cầm chiếc áo nhà binh
Của anh để lại chị nhìn xót xa...

   Năm 1975, tôi theo chồng di tản ra nước ngoài, mang theo đứa cháu ngoại duy nhất mà bà nuôi từ lúc nằm nôi, vì chiến cuộc tôi không thể đem cháu về thăm bà lần cuối. Bà ôm nỗi đau ly tan chỉ biết khóc thầm, vì tôi biết người rất cứng rắn xem như thản nhiên, nhưng trong lòng thì tan nát hết.

Quê hương ngày tôi lớn
Mẹ quê năm tháng buồn
Rồi khi tôi bỏ cội nguồn
Làm đau lòng mẹ tổn thương tuổi già






    Năm 1995,  sau hơn 20 năm, tôi cùng con về thăm má lần đầu cũng là lần cuối. Trong một ngày cuối Thu, cháu lại rủ bà  cùng nhau rời Cõi Tạm. Tim tôi tan nát, lòng tôi xót đau, lúc ấy tôi mới cảm nhận được cái đau của bà phải khóc từng đứa con. 

Quê hương ngày trở lại
Mộ mẹ cỏ xanh rồi
Đau lòng lắm mẹ yêu ơi
Con cài hoa trắng lệ rơi ngập ngừng

   Má tôi bên quê nhà, con gái tôi bên đất Hứa, cách xa nhau hơn nửa vòng trái đất. Con gái tôi đi trước mấy tiếng, lại rủ bà ngoại cùng rời cõi tạm, cùng đi chung trong một ngày.  
  


Joseph Spencer Baker bên quan tài hôn thê 
Diễm Chi Nina Kim

Trong một ngày thứ bảy
Tôi phát tang cho mẹ
Tôi khóc con chết còn quá trẻ
Trên quan tài tang trắng để tang tôi
 Cạnh bên quan tài buồn
Là người chồng chưa cưới
Nhìn ảnh con sụt sùi tức tưởi
Tang trắng mái đầu nghe tiếng cầu kinh

    Tôi không biết tâm nguyện con như thế nào khi bỏ thân này? nếu chôn thì sau này chúng tôi không còn thì ai là người chăm sóc phần mộ, nên tôi hoả táng rồi tìm cách đem tro về Việt Nam. Tôi không thể về thọ tang cho má, bên nhà người anh cả, em gái tôi không ai biết Phật pháp, nên khi bà mất vẫn không có pháp danh.
   Khi mẹ còn ta không quý trọng, không thăm viếng, không cho ăn, khi mẹ qua đời thì làm đám linh đình, để mọi người  khen con có hiếu. Tôi có một người bạn khác xóm, nhưng cùng tuổi, cùng trường. Bạn  kể cho tôi nghe về mẹ của bạn, bạn muốn đem mẹ qua Mỹ, nhưng bà không nở bỏ  người chồng già yếu không ai chăm sóc, dù rằng ông ta là kẻ không ra gì. Nhớ ngày nào mẹ rách rưới, chân trần, cơm không no bụng, nhường hết cho chồng cho con, mà còn bị những trận đòn chí tử, rồi cũng vì chồng phải liên luỵ ngồi tù.





Thương mẹ tôi ốm gầy trông khắc khổ
Chưa một lần hưởng được chút bình yên
Mẹ yêu ơi! Đời mẹ thiếu bạc tiền
Bởi liên luỵ héo mòn trong ngục tối 
Mẹ của tôi suốt đời luôn nghèo đói
Áo chẳng lành lam lũ bởi chồng con
Mẹ hy sinh nhường từng món ăn ngon
Được đổi lại bằng trận đòn tàn bạo !

   Bạn vừa kể, bạn vừa khóc, bây giờ  bạn đi từ nước này sang nước khác, tiền bạc dư thừa, muốn đền đáp ơn mẹ nhưng mẹ đã không còn. Bây giờ ăn những món ngon, vật lạ, lên xe xuống ngựa, có kẻ hầu người hạ, có lính gác cổng, nhà cao cửa rộng, ngủ trong chăn êm, nệm ấm, quần áo thì hàng hiệu sang trọng đắc tiền, đi máy bay thì hạng nhất.

Mẹ của tôi suốt đời luôn thua thiệt
Nhường áo cơm cho con cái, cho chồng
Mẹ gầy còm sau năm tháng long đong 
Mà nước mắt không đong đầy tình mẹ
Con đã đi khắp năm châu bốn bể'
Ngày trở về tìm mẹ đáp ơn sâu
Nhưng mẹ tôi đã khuất núi từ lâu
Đau đớn quá mẹ đâu còn mà gọi

   Nghĩ lại mẹ áo quần rách rưới, phải vá chùm vá đụm, không có đôi dép để mang, hai bàn chân chai cứng bởi ngày ngày ngược xuôi vì chồng, vì con mà chịu đựng không một lời thở than.

  Mẹ chẳng còn để cho con được nói
Yêu mẹ nhiều, yêu mẹ lắm mẹ ơi
Món ngon đây đâu còn mẹ để mời
 Trong tức tưởi con nghẹn ngào thương tiếc

   Tôi cùng bạn về quê thăm mộ mẹ, ngôi mộ buồn hiu mà bóng thời gian đã bào mòn trên tấm mộ bia loang vết sơn bạt mầu. Nước mắt lưng tròng, bạn ước mơ phải chi ngày ấy mình có tiền như bây giờ thì mẹ đâu phải vất vả như thế. Ơn sanh dưỡng, lòng hy sinh của mẹ quá to lớn như biển cả. Thương quá những bà mẹ Việt Nam.





Mẹ ơi mẹ ! Ơn sanh thành chưa báu
Mẹ cho con hết cả một cuộc đời
Mẹ còn gì khi vắt hết tàn hơi
Lúc nằm xuống, mẹ ơi đau đớn quá
Thăm mộ mẹ con thấy lòng băng giá
Con đủ đầy có tất cả trong tay
Nhưng mẹ ơi con mất mẹ từ đây
Mà nước mắt không đong đầy tình mẹ!

  Nếu như không có ân oán với nhau, thì nghiệp lực không dẫn dắt làm cha mẹ, con cái với nhau. Tại sao vua A Xà Thế lại giết cha? Câu chuyện đó Phật tử ai cũng biết. Thời nay cũng có con cái giết cha  giết mẹ. Có nhiều đứa con ngỗ nghịch bất hiếu, phá của mà cha mẹ lại thương hơn đứa con hiếu thảo. Biết được như thế hiểu được như thế, thì ta sẽ không hờn trách cha mẹ.

Mẹ, con là nợ oan gia
Sanh ra để trả biết là nghiệp, duyên
Đền ơn cha mẹ hiện tiền
Làm con hiếu hạnh ngoan hiền khắc ghi


   Nước chảy từ trên xuống, tôi làm mẹ nên tôi biết mang một đứa con phải trải qua biết bao gian khổ, từ khi mang thai cho đến lúc sanh phải đau đớn như thế nào, nếu sanh dễ thì không nói làm chi, có khi sanh khó thì tính mạng người mẹ không còn. Tôi nuôi chỉ một đứa con mà khổ cực dường ấy. Còn má tôi, bà nuôi gần chục có đầu. Tôi thương con tôi như thế nào, thì má tôi cũng thương tôi như thế ấy. Tôi khóc con, chỉ một đứa mà tôi điên đảo, khổ đau tận cùng. Còn má tôi bà khóc từng đứa này đến đứa khác, bà phải chịu đựng từng nỗi đau ấy.





Khóc chồng rồi lại khóc con
Suốt đời lam lũ héo hon tuổi chiều
Mẹ nào biết được tình yêu
Biết đâu hạnh phúc, chỉ nhiều khổ đau!


     Cả đời bà chỉ biết làm lụng nuôi chồng nuôi con, nuôi tới cháu, chưa biết hạnh phúc cho mình là gì. 
   Chuyện mẹ Việt Nam gần nhất 2015 . Vào đầu tháng July, tôi liên lạc về nhà, cháu Kim Huệ tin cho biết là Mười Sao, vốn là đứa chăn bò hồi trước của gia đình tôi, vợ Mười Sao bị xe tông chết ngay tiệm Năm Cua, Chín Ghẹ. Khách Sàigòn thường ghé mua mỗi khi ra Vũng Tàu tắm biển. Câu chuyện rất là  thương tâm. Tại vì phải nuôi thằng con ở tù,  lo lót mới ra tù được một năm, thì nó lại đi bán heroin lại trở vô tù lại.Vì thương con nên phải đi bán bắp để nuôi con tiếp, hỗng ngờ bị xe tông rồi họ  bỏ chạy, người mẹ tội nghiệp kia chết thảm cạnh thúng bắp bên lề đường. Hai đứa tông xe đó trong xóm Chùa,  một đứa bị thương bỏ chạy về nhà mới chết. Người mẹ chết sẽ không được yên, vì tâm đang lo việc kiếm tiền để nuôi thằng con hư hỏng kia. Trong tù khi nghe tin mẹ chết vì buôn bán để nuôi mình, thằng con đó có một chút hối hận nào không? Mẹ không còn ai sẽ nuôi mình? Đúng là loại chùm gởi đã hút hết nhựa sống của thân cây.
  Đến thế hệ của tôi, rất hiếm người không bước thêm bước nữa. Những bà mẹ buôn gánh bán bưng dần dần nằm xuống,  những bà mẹ kế tiếp không còn gồng gánh nữa, không còn chân trần nữa. Những chiếc áo dài, áo bà ba cũng sắp đi vào quá khứ. Những thế hệ sau, khi nhìn những hình ảnh cụ già gồng gánh, chúng sẽ cho là chuyện cổ tích xa xưa.






   Mỗi mùa Vu Lan, tôi lại cài lên áo đoá hoa hồng trắng, để tưởng nhớ không chỉ mẹ của mình, mà tất cả bà mẹ Việt Nam, những bà mẹ đã hy sinh cả cuộc đời mà không cần đền đáp. Và tôi tìm đến các viện dưỡng lão viếng thăm,  nhìn các cụ già sống cô đơn mà nghĩ đến mình một ngày nào cũng thế. Nhưng đã là Phật tử biết tu là biết chuyển, không ngồi đó mà "sory" cho mình, mà phải  làm một cái gì đó cho cuộc sống thêm ý nghĩa,  như một lời  tri ân, vinh danh các bà mẹ Việt Nam!


Viết từ Nairobi (Kenya) 2012



*****